Đầu tư phát triển giáo dục của tỉnh Phú Thọ - pdf 12

Download Đề tài Đầu tư phát triển giáo dục của tỉnh Phú Thọ miễn phí



Các mục tiêu của các chính sách đầu tư giáo dục được xác định với mức quyết tâm cao, đáp ứng được các yêu cầu về nâng cao chất lượng dạy và học trên phạm vi toàn tỉnh. Song chưa phù hợp với khả năng cân đối từ ngân sách các cấp và huy động các nguồn vốn khác( xây dựng một số mục tiêu cao nhưng không có khả năng đáp ứng). Trong chỉ đạo chưa bám sát các mục tiêu của Chính Phủ là ưu tiên xoá phòng học tạm thời, tranh tre, nứa lá nên còn tập trung cho xây mới phòng học còn thiếu và phòng học cấp 4 xuống cấp cho nên tiến độ xoá phòng học tạm còn chậm.
Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong thực thi nhiệm vụ ở các cấp, các ngành chưa đầy đủ; thiếu chủ động trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và điều hành thực hiện các chủ chương đầu tư. Hoạt động của Ban chỉ đạo, Ban điều hành các cấp chưa thường xuyên, chưa kịp thời phát hiện và giải quyết những vướng mẳc tong tổ chức thực hiện. Sự phối kết hợp giữa các ban điều hành chương trình với các sở, ngành chưa chặt chẽ; đặc biệt khi thực hiệnphân cấp cho cấp huyện và cơ sở, một số sở, ngành buông lỏng quản lý, kiểm tra, giám sát. Sự tham gia của một số tổ chức đoàn thể chưa chủ động, chưa thường xuyên, có lúc còn mang tính hình thức, phong trào, một số hoạt động hiệu quả chưa cao.
Trình độ chuyên môn, năng lực tổ chức thực hiện của một số chủ đầu tư, chủ dự án còn hạn chế, nhất là ở cấp xã. Ban giám sát ở xã yếu, nên chưa phát huy được vai trò kiểm tra, giám sát. Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở một số nơi chưa nghiêm túc, hiệu quả chưa cao. Thực hiện chủ trương xã hội hoá xây dựng cơ sở vật chất trường học quán triệt chưa đầy đủ, mức huy động các nguồn lực đạt thấp.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-16884/
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

uyết đầu tư cho giáo dục, mức hỗ trợ đầu tư thấp, thiếu vốn đối ứng để bố trí thực hiện, nên nhiều dự án kéo dài, hiệu quả đầu tư còn hạn chế như vốn chương trình kiên cố hoá đợt 4, xoá nhà tranh tre, nhưng chưa thực hiện được phòng học kiên cố, khó khăn trong việc áp dụng thiết kế mẫu…
Công tác tư vấn khảo sát, thiết kế một số công trình dự án chất lượng chưa cao; công tác kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ, một số công trình sau đầu tư phát huy hiệu quả chưa cao.
Trong quá trình thực hiện, định mức đơn giá xây dựng cơ bản của Nhà nước có nhiều thay đổi, giá cả vật tư, nguyên liệu xây dựng cơ bản… trượt giá, tăng nhanh, gây không ít khó khăn trong quá trình xây dựng kế hoạch, quản lý, điều hành và đẩy nhanh tiến độ thực hiện đầu tư.
Trong công tác xây dựng thiết kế nhà công vụ của nhiều huyện không đảm bảo theo thiết kế mẫu đó là tường ngăn(ở hầu hết tất cả các huyện); hay toàn bộ công trình là tường 110 bổ trụ; không có hay có nhưng rất ít bếp nấu và công trình vệ sinh cho giáo viên như ở các huyện: Thanh Sơn, Thanh Ba, Yên Lập, Cẩm Khê, Đoan Hùng, Hạ Hoà, Thanh Thuỷ.
Một số huyện còn thực hiện việc chỉ định thầu hay tách dự án để chỉ định thầu trái với quy định của Luật đấu thầu. Từ đó mà dẫn đến chất lượng công trình yếu kém hay không đảm bảo theo đúng thiết kế. Mặt khác công tác giám sát thi công còn có những hạn chế nên cũng dẫn đến chất lượng công trình  còn có những tồn tại.Tiến độ xây dựng phòng học và giải ngân ở một số huyện còn chậm so với mặt bằng chung của tỉnh như các huyện: Thanh Thuỷ, Lâm Thao, Phù Ninh,Thanh Ba, Yên Lập, Thanh Thuỷ.
Sự quan tâm, chỉ đạo triển khai thực hiện công tác xã hội hoá của các cấp, các ngành chưa đúng mức, kết quả công tác xã hội hoá ở một số lĩnh vực chưa cao. Các quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực chưa đáp ứng được yêu cầu, nguồn lực đầu tư còn thấp. Công tác quy hoạch mạng lưới trường lớp chưa được quan tâm đúng mức, nhiều nơi thiếu đất để bố trí xây dựng trường chuẩn quốc gia. Nhận thức của một bộ phận nhân dân về xã hội hoá giáo dục còn chưa đầy đủ, tư tưởng trông chờ, ỷ lại vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước ở một số địa phương, cơ sở còn nặng nề, chưa chủ động thực hiện xã hội hoá các nguồn lực đầu tư cho giáo dục. Cơ chế chính sách để thực hiện xã hội hoá giáo dục chưa đồng bộ, có nội dung chưa thích hợp với huy động các nguồn lực của tỉnh, chưa phù hợp với từng vùng, từng địa phương. Quy mô các trường ngoài công lập còn bé, trình độ giáo viên còn chưa được chú ý.
Vấn đề còn tồn tại nữa đó là Môi trường học đường (PTO) - Môi trường học đường là môi trường trong sạch để các em học sinh có thể học hành, vui chơi, sinh hoạt và trưởng thành. Tuy nhiên, thực tế môi trường hiện nay vẫn có những hạn chế nhất định ảnh hưởng đến quá trình học tập của các em. Đó là tình trạng nhà vệ sinh ở nhiều trường học đã xuống cấp trầm trọng, gây ô nhiễm môi trường, không đáp ứng nhu cầu vệ sinh của học sinh. Vấn đề này đã tồn tại từ lâu, song hầu như sự cải thiện của các trường vẫn chưa đáng kể, do đó nhà vệ sinh trường học vẫn còn là nỗi ám ảnh của nhiều học sinh và các bậc phụ huynh.
Theo thống kê của Cục y tế dự phòng - Bộ y tế, cả nước hiện vẫn còn khoảng 27% số trường không có nhà vệ sinh, hay có thì không đảm bảo. Tại Phú Thọ, con số này còn cao hơn, toàn tỉnh hiện vẫn còn hơn 20% trường học không có nhà vệ sinh và 78% trường có nhà vệ sinh không đảm bảo. Đặc biệt đối với các trường học ở các thành phố, thị xã, số lượng học sinh đông nhưng nhà vệ sinh cho các em thì luôn luôn quá tải. Có trường cả ngàn học sinh nhưng chỉ duy nhất có 1 dãy nhà vệ sinh nam - nữ cách nhau 1 vách ngăn hệ thống cống rãnh lúc nào cũng trong tình trạng lênh láng nước cả vào mùa nắng lẫn mùa mưa. Nhất là sau giờ ra chơi, mùi hôi khai xộc thẳng vào các lớp gần đó. Em Nguyễn Thị Thu Lan - học sinh lớp 12 trường THPT huyện Thanh Ba cho biết “.... Trường em có nhà vệ sinh rất đẹp, nhưng nhiều bạn chưa có ý thức giữ gìn vệ sinh nên nơi đây thường xuyên dơ bẩn, hôi khai, ảnh hưởng trực tiếp đến lớp học, Ban giám hiệu nhà trường phải quyết định đóng cửa và cho đi nhà vệ sinh cũ. Mà nhà vệ sinh cũ đã xuống cấp trầm trọng, rất dơ, bọn em nhiều lúc phải nín tiểu, đợi về nhà đi, hay ra chơi đi ở các nhà bạn gần trường”. Có những trường rất chú trọng việc xây dựng bề mặt, phòng học khang trang, sạch sẽ, nhưng khu nhà vệ sinh thì quá kém: Cửa hỏng hay mất cửa, nguồn nước dội rửa thiếu, vòi nước hỏng, không có xô, ca để dội nước, rác xả tùy tiện... Trao đổi với một số lãnh đạo các trường được biết: Có trường cũng đã đầu tư xây dựng được nhưng vì khu nhà vệ sinh gần lớp học quá, mà ý thức của học sinh khi sử dụng còn rất kém, gây mất vệ sinh thường xuyên, làm mùi hôi bay thẳng vào các lớp học gần đó nên nhà trường phải đóng cửa khu nhà vệ sinh này; có trường do thiếu hợp đồng lao động, không có người quét dọn nhà vệ sinh, có trường thì có người quét dọn nhưng do lượng học sinh quá đông, dọn không xuể. Bên cạnh đó ý thức của học sinh khi đi vệ sinh cũng còn kém, vệ sinh xong không chịu dội nước, chưa kể việc xả rác thải bừa bãi xung quanh đó. Tình trạng này dẫn đến sự ô nhiễm nặng nề cho môi trường và ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của học sinh, làm tăng tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy, giun sán phổ biến ở lứa tuổi học đường. Đối với những trường tiểu học có học sinh học bán trú thì việc đi vệ sinh hàng ngày là một cực hình đối với các em. Có em không dám uống nước nhiều vì sợ phải đi tiểu. Có em thì nín nhịn chờ ba mẹ tới đón về là chạy vội vào nhà vệ sinh. Ngoài ra, ở những trường học vùng nông thôn thì học sinh nam còn đi tắt ra ngoài bãi, hay những khu vực xung quanh trường, có em không kịp đi xa thì đứng tè ngay bên chân tường. Còn học sinh nữ thì vấn đề càng nan giải hơn bởi lý do giới tính nên đành phải nhịn tiểu la chuyện thường xuyên. hay có trường nhà vệ sinh quá bẩn nên các em không thể sử dụng được. Do đó, có nhiều buổi học mà các em rất mệt mỏi, việc tiếp thu bài vở cũng giảm sút nhiều. Theo quy định của ngành y tế và giáo dục thì nhà vệ sinh trường học phải có đủ ánh sáng, nước dội, vòi nước, xà bông rửa tay, không có mùi hôi, không bị đọng nước hay xuống cấp. Tuy nhiên, số trường học có nhà vệ sinh đáp ứng đủ các tiêu chí này còn rất ít. Nhất là các trường tiểu học, bởi vì học sinh còn nhỏ tuổi nên ý thức sử dụng nhà vệ sinh của các em còn hạn chế. Cho nên việc quét dọn hàng ngày cũng như bảo quản, duy trì vệ sinh môi trường ở các khu vê sinh trường học đều dồn lên vai người lao động. Tình trạng thiếu nhà vệ sinh và mất vệ sinh trường học là vấn đề đáng quan tâm, chính điều đó đã ảnh hưởng đến sức khỏe của các em học sinh, gây hạn chế đến việc tiếp thu bài vở của các em, ảnh  hưởng...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status