Tiểu luận Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý - pdf 13

Download Tiểu luận Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý miễn phí



- Đổi mới để gắn liền với hoạt động thực tiễn phù hợp với những chủ trương, đường lối hiện nay của Đảng ta, để gắn lý luận, nhận thức với thực tiễn từ đó giúp cho sự nhận thức của chúng ta về các quy luật và trên cơ sở đó đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn trong công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta hiện nay.
- Chúng ta phải đổi mới để tranh thủ cơ hội, thách thức, biết tận dụng, khai thác sử dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhận thức dã đạt được để rút ngắn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Nhằm phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá sản xuất nhằm phù hợp với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ để tiếp thu và vận dụng.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-34449/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

nhất của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
2. Quá trình nhận thức
- Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn rất phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu và hình thức khác nhau.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi nhận thức không phải là sự phản ánh giản đơn, thụ động, mà là một quá trình gắn liền với hoạt động thực tiễn. Quá trình đó đã được Lênin chỉ ra như sau: "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan".
- Tuỳ theo tính chất của sự nghiên cứu mà quá trình đó được phân hoá ra thành các cấp độ khác nhau như: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận hay nhận thức thông thường và nhận thức khoa học.
Theo Lênin thì quá trình nhận thức trải qua hai khâu sau:
a) Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.
- Trực quan sinh động hay chính là nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên, gắn liền với thực tiễn và thông qua các giác quan trong đó.
+ Cảm giác là hình thức đầu tiên của sự phản ánh hiện thực khách quan, là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người như màu sắc, mùi vị, độ rắn… Sự tác động này gây nên sự kích thích của các tế bào thần kinh làm xuất hiện các cảm giác.
+ Tri giác là hình thành kế tiếp sau cảm giác là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực tiếp tác động vào các giác quan. Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm giác, là sự tổng hợp của nhiều cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật. Tri giác cũng phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trực tiếp thông qua các giác quan.
+ Biểu tượng: là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn trực quan sinh động. Biểu tượng xuất hiện trên cơ sở những hiểu biết về sự thật do tri thức đem lại. Biểu tượng là hình ảnh về sự vật được lưu giữ trong chủ thể nhận thức khi sự vật không còn hiện diện trực tiếp trước chủ thể. Con người không cần quan sát trực tiếp sự vật mà vẫn hình dung ra chúng dựa trên sự tiếp xúc nhiều lần trước đó. Do đó, ở biểu tượng nhận thức đã chứa đựng những yếu tố gián tiếp. Biểu tượng là khâu trung gian giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng.
Như vậy: cảm giác, tri giác và biểu tượng là những giai đoạn kế tiếp nhau của hình thức nhận thức cảm tính. Trong nhận thức cảm tính đã tồn tại cả cái bản chất lẫn không bản chất, cả cái tất yếu và ngẫu nhiên, cả cái bên trong lẫn bên ngoài sự vật. Nhưng ở đây, con người chưa phân biệt được cái gì là bản chất với không bản chất, đâu là tất yếu với ngẫu nhiên, đâu là cái bên trong với bên ngoài. Yêu cầu của nhận thức đòi hỏi phải tách ra và nắm lấy cái bản chất, tất yếu, bên trong, chỉ có chúng mới có vai trò quan trọng cho hoạt động thực tiễ và nhận thức của con người nên nhận thức sẽ vượt lên một trình độ mới, cao hơn về chất, đó là trình độ nhận thức lý tính hay là giai đoạn tư duy trừu tượng.
- Tư duy trừu tượng hay là nhận thức lý tính, là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của đối tượng. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nó đạt đến trình độ phản ánh sâu sắc hơn, chính xác hơn và đầy đủ hơn cái bản chất của đối tượng, là giai đoạn cao của quá trình nhận thức khái niệm, phán đoán, suy lý.
+ Khái niệm: là hình thức cơ bản nhất của tư duy trừu tượng, nó phản ánh, khái quát những đặc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của một lớp các sự vật, hiện tượng nhất định (đó chính là những đặc tính bản chất của sự vật). Khái niệm được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn, là kết quả của sự khái quát những tri thức do trực quan sinh động đem lại. Khái niệm vừa có tính chủ quan vừa có tính khách quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Nó chẳng những rất linh động, mềm dẻo năng động mà còn là "Điểm nút" của quá trình tư duy trừu tượng, là cơ sở để hình thành phán đoán.
+ Phán đoán là sự vận dụng các khái niệm trong ý thức con người để phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng cũng như các thuộc tính, tính chất của chúng hay chính là hình thức của sự liên kết các khái niệm lại với nhau. Có nhiều loại phán đoán khác nhau. Tuỳ theo cách phân chia ta có: phán đoán khẳng định, phán đoán phủ định, phán đoán phổ biến, phán đoán đặc thù và phán đoán đơn nhất.
+ Suy lý (suy luận) là quá trình lôgic của tư duy tuân theo quy luật nhất định để tạo ra một phán đoán mới từ những phán đoán tiền đề hay chính là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới. Tính chân thực của phán đoán két luận phụ thuộc vào tính chân thực của phán đoán tiền độ cũng như tính hợp quy luật của quá trình suy luận.
- Giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính (hay trực quan sinh động và tư duy trừu tượng) có sự thống nhất bởi đó là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức, dựa trên cơ sở thực tiễn và hoạt động thần binh cao cấp. Chúng là những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức, giữa chúng có sự tác động qua lại: Nhận thức cảm tính cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính, nhận thức lý tính tác động trở lại nhận thức cảm tính làm cho nó chính xác hơn, nhạy bén hơn. Nhận thức cảm tính khác nhận thức lý tính ở chỗ.Nhận thức cảm tính là giai đoạn thấp, phản ánh khách thể một cách trực tiếp đem lại những tri thức về bản chất và quy luật của khách thể.
b) Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn
- Nhận thức phải trở về thực tiễn để kiểm tra, khẳng định, kiểm nghiệm là tri thức đúng hay sai lầm, tri thức ấy có chân thực không.
- Quay trở về thực tiễn, nhận thức hoàn thành một chu trình biện chứng của nó. Trên cơ sở hoạt động thực tiễn mới một chu trình nhận thức tiếp theo lại bắt đầu và cứ như thế mãi mãi.
- Xét trong toàn bộ nhận thức của con người về thế giới, thực tiễn là yếu tố không thể thiểu được của quá trình nắm bắt chân lý - là vòng khâu "chuyển hoá" kết quả nhận thức thành chân lý khách quan.
3. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
a) Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý.
Nhờ có thực tiễn, chúng ta phân biệt được chân lý và sai lầm, tức thực tiễn đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
- Thực tiễn là hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập đối với nhận thức, nó luôn luôn vận động, và phát triển trong lịch sử. Nhờ đó là mà thúc đẩy nhận thức cùng vận động, phát triển. Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng không thể vượt ra...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status