Tiểu luận Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - pdf 13

Download Tiểu luận Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam miễn phí



Trước đây, khi còn quan niệm không đúng: đối lập chủ nghĩa xã hội với sản xuất hàng hoá, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (vì cho rằng kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường gắn với chủ nghĩa tư bản), thì nhiều người nhận thức, và hiểu rằng dưới chủ nghĩa xã hội không còn sản xuất hàng hoá, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, mà nếu có tồn tại thì chỉ là một nền kinh tế hàng hoá đặc biệt (chỉ có tư liệu tiêu dùng là hàng hoá, còn tư liệu sản xuất, sức lao động, vốn không phải là hàng hóa). Nhưng sự tồn tại của nền sản xuất hàng hoá ở nước ta là không thể phủ nhận.
Về điều kiện thứ nhất của sản xuất hàng hoá, đó là phân công lao động xã hội; chẳng những không mất đi, mà trái lại còn phát triển cả về bề rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-34305/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

xuất hàng hoá sản xuât cái gì, như thế nào, cho ai, là do họ quyết định. Mục đích duy nhất của họ là thu được nhiều lãi nhất. Dựa vào sự biến động của giá cả thị trường, người sản xuất biết được mặt hàng nào đang bán chạy và mặt hàng nào đang thừa. Người sản xuất sẽ mở rộng sản xuất những mặt hàng đang thiếu, bán chạy, giá cao và thu hẹp lại những mặt hàng nào ế thừa, giá thấp. Một số người sẽ chuyển sang sản xuất những mặt hàng đang thiếu vầ giá cao, bỏ những mặt hàng mang lại lợi nhuận thấp. Kêt quả là các yếu tố sản xuất như sức lao động, tư liệu sản xuất, tiền vốn chuyển dịch từ ngành này sang ngành khác. Đây chính là sự điều tiết sản xuất của quy luật giá trị. Trong lưu thông hàng hoá, quy luật giá trị cũng tham gia vào quá trình vận động của hàng hóa từ nơi giá thấp đến nơi giá cao. Từ đó phân phối các nguồn hàng hoá một cách hợp lý hơn giữa các vùng, giữa cung và cầu đối với các loại hàng hoá trên thị trường.
+ Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.: Vì hàng hoá bán theo giá trị xã hội do hao phí lao động xã hội các thiết quyết định, nên ngưòi sản xuất có ít hao phí lao động cá biệt hơn lao động xã hội cần thiết thì sẽ thu được nhiều lợi hơn. Chính vì vậy muốn thu nhiều lợi hơn, chiến thắng và đứng vững trong thị trường cạnh tranh, mỗi nhà sản xuất đều phải không ngừng tìm cách rút xuống đến mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt. Muốn vậy, họ phải không ngừng tim cách cải tiến lực lượng sản xuất.
+ Phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo, và làm nảy sinh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: trong cuộc chạy đua theo lợi nhuận, những nhà sản xuất nào làm tốt sẽ thu được nhiều lợi nhuận trở nên giàu có. Ngược lại, những nhà sản xuất khác làm kém hơn sẽ phải chịu sự thua lỗ và trở thành cùng kiệt hơn. Từ đây, phát sinh ra quan hệ sản xuất TBCN, những ngưòi giàu trở thành ông chủ, những người cùng kiệt trở thành những người làm thuê. Đây là quan hệ tư sản và vô sản, quan hệ giữa chủ và tớ, quan hệ đối kháng về lợi ích kinh tế.
b) Quy luật cung cầu:
+ Quy luật này thể hiên mối quan hệ khách quan giữa cung cầu trên thị trường. Cung và cầu là sự khái quát hai lực lượng cơ bản của thị trường là: người mua và người bán. Vậy cung và cầu là gì?
- Cung là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp tung ra thị trường với giá cả nhất định,trong một thời kỳ nhất định. Cung chịu ảnh hưởng của hai nhân tố là giá cả và thu nhập. Với giá cả, cung chịu ảnh hưởng: khi các yếu tố sản xuất đã được tận dụng thì giá cả không ảnh hưởng tới cung là mấy. Nhưng trong trường hợp chưa tận dụng hết thì tăng giá có thể dẫn tới tăng cung.Với thu nhập, ảnh hưởng tới trường vốn hay đoản vốn của doanh nghiệp, điều này chi phôi cách ứng xủa của doanh nghiệp khi tung hàng ra tiêu thụ.
- Cầu là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà ngưòi tiêu dùng, muốn mua trong một thời kỳ với mỗi một mức giá nhất định. Cầu phụ thuộc vào các nhân tố: nhu cầu mua sắm của xã hội, khả năng mua săm của dân cư(khả năng này lại phụ thuộc vào thu nhập của mỗi ngưòi và giá cả hàng hoá).
+ Cân bằng cung cầu trên thị trường: cung và cầu luôn tác động qua lại lẫn nhau. Cung xác định cầu và ngược lại cầu cũng xác định cung. Mối liên hệ mạt thiết này tạo ra quy luật cung cầu. Trên thị trường, người mua muốn giá của hàng hoá là thấp , trong khi đó người bán lại muốn giá cả cao. Tới một lúc nào đó thì giá giữa họ là bằng nhau, đó là giá cả thị trường hay giá cả trung bình. Giá cả thực tế trên thị trương xoay quanh điểm cân bằng này, tuỳ từng trường hợp vào tương quan giữa cung và cầu. ậ điểm cân bằng này, lượng hàng hoá mà người bán sẵn sàng bán bằng với lượng hàng hoá ma người mua sẵn sàng mua.Quy luật cung cầu biểu hiện thông qua sự thay đổi của giá cả. Với số lượng cung cố định, cầu tăng sẽ làm tăng giá, nếu với một sức cầu cố định thì cung tăng sẽ làm giảm giá.
c) Quy luật cạnh tranh:
Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tẩnh về kinh tế giữa những người sản xuất với nhau, giữa những người sản xuất với người tiêu dùng, nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm để thu được nhiều lợi nhuận nhật cho mình.
Nội dung cạnh tranh bao gồm việc canh tranh chiếm lĩnh những nguồn nguyê liệu, gianh giật những nguồn lực sản xuất; cạnh tranh về khao học công nghệ. Cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường, giành giật nơi đầu tư, các hợp đồng, các đơn đặt hàng. Cạnh tranh có thể bằng giá cẩ, bằng chất lượng, các dịch vụ kèm theo, cách thanh toán....Cạnh tranh có nhiều loại: cạnh tranh giữa nhưng người mua, giữa những người sản xuất, cạnh tranh trong nội bộ ngành, và cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh có vai trò tích cực trong nền sản xuất hàng hoá. Nó buộc người sản xuất hàng hoá phải không ngừng cải tiến kỹ thuật sản xuất, lực lượng lao động, nâng cao năng suất, tiết kiệm nhiên liệu....Hơn nữa,để bán được nhiều hàng hoá hơn thì nhà sản xuất phải không ngừng nghiên cứu thị truờng, thị hiếu, sở thích của người tiêu dùng, từ đó kích thích sự đa dạng của mẫu mã sản phẩm Như vậy có thể nói, quy luật cạnh tranh có tác dụng đào thải những cái cũ, lạc hậu, không phù hợp, binh ftuyển những cái mới, tiến bộ thuc đẩu sản xuất hàng hó phát triển.
Tuy nhiên cùng với những tác dụng của nó, cạnh tranh cò gây ra những hậu quả: đầu cơ, lừa đảo, ô nhiễm môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên ...
d) Quy luật lưu thông tiền tệ:
Khi tiền tệ xuất hiện, sự troa đỏi hàng hoá trực tiếp chuyển sang trao đổi một cách gián tiếp- trao đổi hàng hoá lấy tiền tệ làm môi giới. Sự vận động của tiên tệ lấy sự trao đổi hang hoá làm tiền đề gọi là lưu thông tiền tệ. Sự vân động của hàng hoá và tiền tệ là sự thông nhất giữa lưu thông tiền tệ và lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên số tiền đưa vào lưu thông không phải là vô tận.
Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông ở mỗi thời kỳ cần có một số lượng tiền nhất định. Số lượng tiền này được xác định bằng quy luật lưu thông tiền tệ. Quy luật này được xác định như sau:
Số lượng tiền cần thiết trong lưu thông
=
Tổng số giá cả hàng hoá
-
Tổng số giá cả hàng hoá bán chịu
+
Tổng số giá cả hàng hoá khấu trừ cho nhau
+
Tổng số giá cả hàng hoá bán chịu đến kỳ thanh toán
Số lần luân chuyển trung bình của tiền tệ
Quy luật lưu thông tiền tệ nói trên là qui luật tiền vàng.
II. Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
1.Tính tất yếu khách quan chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa:
1.1. Sự tồn tại của sản xuất hàng hoá ở nước ta:
Trước đây, khi còn quan niệm không đúng: đối lập chủ nghĩa xã hội với sản xuất hàng hoá, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (vì cho rằng kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường gắn với chủ nghĩa tư bản), thì nhiều người nhận thức, và hiểu r...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status