Đề án Thực trạng và giải pháp phát triển Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay - pdf 13

Download Đề án Thực trạng và giải pháp phát triển Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay miễn phí



 
MỤC LỤC
 
LỜI NÓI ĐẦU.1
CHƯƠNG I / MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DNNN.2
I/ Tính tất yếu khách quan.2
1. Định nghĩa về DNNN.2
2. Các bộ phận cấu thành của KTNN.2
3. Sự cần thiết phải củng cố và phát triển DNNN .3
3.1 Sự cần thiết của DNNN 3
3.2 Sự cần phát triển DNNN 5
II/ Vai trò then chốt của DNNN 11
CHƯƠNG II/ THỰC TRẠNG DNNN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 12
I/ Quá trình đổi mới DNNN 12
1. Giai đoạn 1980-1986 12
2. Giai đoạn 1986-1990 13
3. Giai đoạn 1990 đến nay 15
3.1 Đổi mới cơ chế quản lý DNNN 15
3.2 Sắp xếp lại DNNN 17
II/ Kết quả đạt được về quá trình đổi mới DNNN trong thời gian qua 20
1. Những thành tựu chủ yếu 20
2. Những yếu kém chủ yếu của các DNNN hiện nay 21
2.1 Về hiệu quả kinh doanh 21
2.2 Về khả năng cạnh tranh 22
2.3 Về cơ cấu DNNN 23
3. Những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của các DNNN 23
3.1 Đầu tư sai 23
3.2 Tình trạng thiếu vốn phổ biến 24
3.3 Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu 25
3.4 Số lao động dư thừa đang rất lớn 25
3.5 Doanh nghiệp không được tự chủ về tài chính 25
3.6 Không được tự chủ về nhân sự và tiền lương 25
3.7 Tổ chức quản lý không phù hợp 26
3.8 Môi trường kinh doanh chưa hoàn chỉnh 26
CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI DNNN TRONG THỜI GIAN TỚI 27
I/ Phương hướng đổi mới các DNNN trong thời gian qua 27
II/ Giải pháp tiếp tục đổi mới và phát triển DNNN 28
1. Định hướng sắp xếp, phát triển DNNN hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích 28
1.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh 28
1.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích 28
2. Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách 29
2.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh 29
2.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích 30
2.3 Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được 31
3. Đổi mới và nâng cao hiệu quả của các tổng công ty nhà nước; hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh 31
4. Đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN 32
5. Thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản DNNN 32
KẾT LUẬN 33
 
 
 
 
 
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-34306/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

trình đổi mới kinh tế ở nước ta có thể chia thành ba giai đoạn
Giai đoạn 1980 – 1986
Giai đoạn đổi mới này gắn liền với đổi mới quan điểm của đảng và nhà nước về quản lý kinh tế nói chung và DNNN nói riêng. Cơ chế quản lý cũ đã tỏ ra kìm hãm sức sản xuất, triệt tiêu động cơ phát triển, hậu quả là nền kinh tế trì trệ, tụt dốc, khủng hoảng, đời sống nhân dân xa sút. Các DNNN ngày càng xa sút. Hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ sáu khoá IV tháng 9 – 1979 đã ra nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp bách đánh giá tình hình thực tiễn và những yêu cầu bức thiết của xã hội, trong đó nhấn mạnh phải “ cải tiến chính sách phân phối, lưu thông ( giá, lương, tài chính, ngân hàng ). Tiếp đó Chính phủ đã ban hành các quyết định có liên quan để điều hành nền kinh tế nói chung và các DNNN nói riêng như quyết định số 25/CP tháng 1-1981 về kế hoạch ba phần, quyết định số 26 /CP tháng 2-1981 về phân phối lưu thông ... Nghị quyết trung ương 6 khoá IV và quyết định 25/CP là bước tiến đầu tiên trong việc cơ chế quản lý các DNNN từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Sau đó là các quyết định quan trọng như quyết định số 146/HĐBT tháng 2-1982; nghị quyết 306 ( dự thảo ) của Bộ Chính trị và quyết định 16/HĐBT tháng 6-1986 đều đưa ra những quan điểm và biện pháp đổi mới quản lý DNNN trong điều kiện cải tiến , cơ chế quản lý nói chung.
Các biện pháp đổi mới giai đoạn này chủ yếu tập trung vào tháo gỡ những vướng mắc, rào cản vô lý của cơ chế cũ, do đó có tác dụng như cởi trói, giải phóng năng lực sản xuất của các DNNN và cùng với các biện pháp khoán trong nông nghiệp, cải cách phân phối lưu thông đã có tác dụng thúc đẩy sản xuất nói chung, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, tụt dốc. Đối với các DNNN, việc cho phép các đơn vị tự chủ bố trí các nguồn lực sản xuất theo kế hoạch ba phần đã có ý nghĩa rất quan trọng trong phát huy sáng tạo của cơ sở, từng bước đưa các yếu tố thị trường vào cơ chế quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, các biện pháp giai đoạn này vẫn mang tính nửa vời, chắp vá ( biểu hiện ở kế hoạch ba phần, cơ chế song trùng ) dẫn đến hệ quả khó hạch toán, khó kiểm soát, khó đánh giá, lợi dụng sự rối rắm của cơ chế quản lý để trục lợi, trong khi năng lực sản xuất và sức sáng tạo vẫn chưa thực sự được giải phóng.
Giai đoạn 1986 – 1990
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng năm 986 đánh dấu bước ngoặt cơ bản trong quá trình đổi mới kinh tế nói chung ởt nước ta, trong đó có đổi mới DNNN. Đại hội chỉ rõ: “ phải đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho các đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ, thực sự chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Sắp xếp lại sản xuất, tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trên cơ sở đó, ổn định và từng bước nâng cao tiền lương thực tế của công nhân, viên chức, tăng tích luỹ cho xí nghiệp và cho nhà nước”. Đại hội VI vẫn tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của DNNN nhưng đã đưa ra quan điểm coi chủ đạo không có nghĩa là phải chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành, mọi địa phương mà thể hiện ở “ năng suất, chất lượng, hiệu quả”
Sau đại hội đảng lần thứ VI, đổi mới DNNN thực sự trở thành nội dung trung tâm của tiến trình đổi mới toàn bộ hệ thống kinh tế theo hướng nhất quán chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng sức sản xuất xã hội. Tháng 11 – 1987 Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Chính phủ ) ban hành quyết định 217/HĐBT đánh dấu bước đổi mới cơ bản DNNN theo hướng áp dụng cơ chế mới. Tiếp theo là các nghị định 50/HĐBT(3-1988) bổ sung quyết định 217, nghị định 27/HĐBT ( 3-1989 ) ban hành điều lệ xí nghiệp quốc doanh ( DNNN ) ... đã thúc đẩy tiếp quá trình đổi mới DNNN.
Giai đoạn này đối với DNNN lầ giai đoạn bước ngoặt đưa các DNNN chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh theo nguyên tắc thị trường hay gọi là quá trình thương mại hoá có tác dụng bắt buộc các doanh nghiệp phải định hướng vào thị trường, đồng thời tăng quyền tự chủ của doanh nghiệp trong các quyết định kinh doanh. Về mặt quan hệ với nhà nước, trong giai đoạn này hệ thống quan hệ kế hoạch dần dần chuyển từ kế hoạch trực tiếp sang kế hoạch gián tiếp, do đó các DNNN từ chỗ phải hoạt động theo kế hoạch với 9 chỉ tiêu pháp lệnh dần dần bãi bỏ chỉ còn 1 chỉ tiêu nộp ngân sách, xoá bỏ bao cấp từ ngân sách nhà nước, bãi bỏ chế độ 2 giá, hạch toán kinh doanh theo giá thị trường. Về quản lý, quyết định 217/HĐBT trao quyền tự chủ rất rộng rãi cho doanh nghiệp mà hầu như không có biện pháp kiểm soát tương ứng. Các doanh nghiệp lại trao quyền tự chủ cho các bộ phận, chi nhánh của mình trong tìm kiếm, ký hợp đồng và tổ chức sản xuất kinh doanh với các khách hàng dẫn đến tình trạng “trăm hoa đua nở” rất sôi động nhưng cũng rất phức tạp, khó quản lý về mặt nhà nước .
Điều đáng chú ý trong giai đoạn này là thực hiện chủ trương phân cấp, nhà nước, trung ương giao quyền cho chính quyền các địa phương ra quyết định thành lập các DNNN. Vì vậy chỉ trong vòng 4 năm số lượng DNNN tăng lên gần gấp 2 lần, đưa số DNNN của Việt nam lên 12084, trong đó đến 60% là các doanh nghiệp do địa phương quản lý. Rất nhiều DNNN do chính quyền địa phương quyết định thành lập hầu như không được cấp vốn, chủ yếu hoạt bằng vốn vay ngân hàng.
Nhìn chung, các DNNN giai đoạn này đã từng bước đổi mới. Một bộ phận doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, ngược lại một bộ phận khác không thích nghi được với thị trường, thua lỗ triền miên, trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Về tổng thể khu vực DNNN vẫn được giữ vai trò chủ đạo của mình, chiếm trên dưới 35% GDP và 60% nộp ngân sách nhà nước .
Giai đoạn 1990 đến nay
Tiếp tục đường lối đổi mới kinh tế, đại hội toàn quốc lần thứ VII năm 1991 đã chủ trương: “khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm vững những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Tập trung lực lượng củng cố và phát triển những cơ sở trọng điểm, những cơ sở làm ăn có hiệu quả và có ý nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân. Cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hay giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên. sắp xếp lại các liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường” và “khu vực quốc doanh phải được sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước.
Đại hội VIII của đảng năm 1996 tiếp tục khẳng định: “ tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả KTNN để làm tốt vai trò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh t
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status