Đề tài Tìm hiểu khả năng phát âm đúng của trẻ mẫu giáo lớn ở trường mầm non Dị Nậu - Huyện Tam Nông - Phú Thọ - pdf 13

Download Đề tài Tìm hiểu khả năng phát âm đúng của trẻ mẫu giáo lớn ở trường mầm non Dị Nậu - Huyện Tam Nông - Phú Thọ miễn phí



Phụ lục
Phần I : mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. phương pháp nghiên cứu
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Phần II
Nội dung nghiên cứu
Chương I : cơ sở lý luận
I. Cơ sở ngữ âm
II. Những đạc điểm phát âm của trẻ mẫu giáo
III. Nội dung và phương pháp luyện phát âm cho trẻ
Chương II : Khảo sát thực trạng khả năng phát âm của trẻ mẫu giáo
I. Cơ sở tiến hành khảo sát
II. Cách tiến hành khảo sát
III. Kết quả khảo sát thực trạng khả năng phát âm đúng ở 3 lứa tuổi (bé, nhỡ, lớn) cho thấy kết quả phát âm của trẻ
Chương III. Một số biện pháp luyện phát âm cho trẻ
Phần III
Kết luận - Kiến nghị s ư phạm
I. Kết luận
II. Kiến nghị sư phạm
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-36733/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

vô danh trong các âm ồn: Căn cứ vào chỗ dây thanh có rung hay không rung người ta chia ra :
+ Phụ âm hữu thanh : Dây thanh rung (d, v, y)
+ Phụ âm vô thanh : Dây thanh không rung (t, k, c, b, s, x, h)
- Về vị trí cấu âm ta phân phụ âm thành :
+/ Phụ âm môi : p, b, m, f, v
+/ Phụ âm lưỡi : d, t, s, z, l, n
+/ Phụ âm hầu : h
Trong các âm lưỡi sự đối lập nhau giữa đầu lưỡi hẹp : r, t, s, z, l, n; đầu lưỡi quật : đ, a.
Phần vần là do thành phần của âm đệm, âm chính, âm cuối ghép với nhau thành một bộ phận gọi là phần vần.
Ví dụ : Âm tiết Loan :
O là âm đệm
A là âm chính
N là âm cuối
Oan là phần vần.
II. Những đặc điểm phát âm của trẻ mẫu giáo
Âm tiết của ngôn ngữ là đơn vị âm thanh nhỏ nhất trong lời nói không thể phân chia được nữa, lúc đầu trẻ hình thành thính giác. Âm thanh tức là sự phân biệt các âm của ngôn ngữ còn phát âm chúng sẽ học sau. Sự phát âm đúng có liên quan chặt chẽ với sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan phát âm của trẻ.
Khả năng phát âm của trẻ phụ thuộc vào sự hoàn thiện của bộ máy phát âm. ở tuổi mẫu giáo những điều kiện này đã đạt được mức tương đối ổn định cho nên trẻ đã có thể phát âm được hầu hết các âm vị. Tuy nhiên một số trẻ vẫn còn mắc một số lỗi về phát âm.
1. Lỗi về thanh điệu :
Trong số các thanh điệu tiếng Việt, thanh hỏi và thanh ngã là hai thanh có cấu tạo phức tạp. Việc thể hiện thanh ngã với âm điệu gãy, ở giữa là cách phát âm khó đối với trẻ. Trẻ thay thế bằng cách phát âm đơn giản hơn tức là với âm điệu không gãy ở giữa. Vì vậy dễ đồng nhất với âm điệu của thanh sắc.
VD : Phát âm ngã thành ngá hay giã thành giá.
- Sự chuyển đổi hướng đi của đường nét âm điệu thanh hỏi không diễn ra đột ngột như thanh ngã, quá trình phát âm kéo dài trở thành khó đối với trẻ nhỏ có hơi thở ngắn.
- Khi phát âm, trẻ thay thế âm điệu gãy bằng âm điệu không gãy, điều này làm cho thanh hỏi ở trẻ gần như đồng nhất với thanh nặng.
- Phát âm hỏi thành họi hay phát âm “hổ” thành “hộ”. Đến hết tuổi mẫu giáo lỗi sai về hai thanh này sẽ được khắc phục hầu như hoàn toàn.
2. Lỗi về âm chính :
Lỗi về âm chính tập trung vào việc trẻ phát âm nguyên âm đôi này thành nguyên âm đôi kia.
Ví dụ : Trẻ phát âm “con hươu” thành “con hiêu”, con Ngỗng thành Con Ngống
Trẻ phát âm sai là do tập quán của địa phương hay do nghe chưa chính xác, các âm tiết có âm chính là nguyên âm đôi làm cho cấu tạo của âm tiết phức tạp hơn, phát âm khó khăn hơn.
3. Lỗi phụ âm đầu :
Trẻ thường hay nói lẫn lộn : l , n
Ví dụ : Con “lợn” thành con “Nợn”; Cái “nồi” thành cái “lồi”.
- Lỗi lẫn tr thành ch ; s - x; r - d…
“Gà trống” phát âm thành “gà chống”.
“Hoa sen” thành “Hoa xen”
Con rùa thành Con dùa.
- Lỗi lẫn r thành d; gi thành d : cái rổ thành cái dổ; cô giáo thành cô dáo.
Một số trẻ khi phát âm phụ âm P trẻ lẫn sang phụ âm “b”
VD : Đèn pin thành đèn bin
4. Lỗi về âm đệm :
Âm đệm chỉ được đọc lướt qua nên trẻ khó ghi nhận những âm chính vì thế âm đệm thường bị bỏ qua.
VD : Trẻ phát âm “quả quất” thành “quả cất”; “loắt choắt” thành “lắt chắt”
5. Lỗi về âm cuối :
Trong phụ âm đứng làm âm cuối thì những cặp ch và nh trẻ phát âm thành t, n.
VD : Anh Tú thành ăn Tú, cây xanh thành cây xăn, vòng quanh thành vòng quăn…
III Nội dung và phương pháp rèn luyện phát âm.
Đối với trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo dễ hình thành sự phát âm đúng hơn khi đã trưởng thành. Điều quan trọng là cô giáo mẫu giáo đều cần nói đúng để làm mẫu cho trẻ.
Sự phát âm của trẻ phụ thuộc vào bộ máy phát âm, để dạy trẻ phát âm đúng cần thường xuyên luyện tập một số cơ quan phát âm như : môi, lưỡi, răng, sự phát triển linh hoạt của hàm. Cần giúp trẻ biết điều khiển nhịp nhàng các cử động của bộ máy phát âm. Sự phát âm rõ ràng các âm, các từ phụ thuộc vào sự chính xác và lực của các cử động của bộ máy phát âm. Rất nhiều trẻ nói không rõ, từ này trộn lẫn với từ kia thành một tập hợp âm khó hiểu. Nguyên nhân là cử động chậm chạp của môi và lưỡi, tính linh hoạt của hàm còn yếu do đó miệng của trẻ há không to và các nguyên âm phát ra không đúng, sự phát âm không rõ ràng, các từ phụ thuộc vào sự phát âm của các nguyên âm có đúng không và sau đó phụ thuộc vào sự điều hoà các hoạt động của bộ máy phát âm khi xác lập các phụ âm. Tập luyện cơ của bộ máy phát âm là trọng tâm và cần thiết như tập thể dục để phát triển cơ thể ở mẫu giáo, không nên xem việc dạy phát âm chỉ dành cho các cháu có tật mà làm cho tất cả các cháu.
Giờ dạy phát âm phải được tiến hành thường xuyên, có hệ thống, ở nhóm nhỏ hướng dẫn hàng ngày; còn ở nhóm lớn tối thiểu 3 - 4 lần trong 1 tuần. Những bài học luyện bộ máy phát âm ở trường mẫu giáo thường mang tính chất trò chơi như bắt chước tiếng kêu của các loài vật như : cạc cạc (vịt); gâu gâu (chó); meo meo (mèo); ộp ộp (ếch).
Trò chơi : “Con gì kêu đấy” : Cô giáo treo trên bảng tranh vẽ những con vật, đồ vật và cho cháu đoán hay bày lên bàn những đồ chơi là con vật hay đồ vật có tiếng kêu mà các cháu sẽ đố nhau, cô bảo các cháu nhìn lên tranh và lên đồ chơi rồi gọi tên chúng sau đó cô bắt chước tiếng kêu của từng con vật hay đồ chơi và yêu cầu trẻ nói đúng tên con vật và đồ vật đó.
VD : Cô nói tu tu, xình xịch các cháu phải nói tàu hoả; cô nói vịt vịt thì trẻ nói vịt con; chiếp chiếp thì nói gà con, cô nói ò ó o thì nói gà trống gáy… hay cô có thể cho một cháu ra ngoài lớp, sau đó cô và cháu ở trong lớp chọn một con vật cất đi, cho cháu đó vào thì cô và cháu ở trong lớp bắt chước tiếng kêu của con vật đó hay tiếng động cơ của đồ chơi, sau đó cô bảo cháu đó nói tên con vật tên đồ chơi.
Trong mẫu giáo lớn để hoàn chỉnh cách phát âm thường sử dụng bài tập, đặc biệt học thuộc lòng các bài thơ, những câu nói nhanh là một hay nhiều câu khó phát âm mà trong đó một âm có thể được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đầu tiên cô đọc mẫu, cô chọn những câu nói nhanh cần thiết trong một thời hạn dài, nếu trong một tháng trẻ học thuộc 1 trong 2 câu thì trong 1 năm cần chọn 10 -15 câu có mức độ phức tạp khác nhau. Cho trẻ làm quen với những câu dễ trước, câu khó sau. Trẻ sử dụng câu nói nhanh trong giờ học, trong khi chơi và các giờ hoạt động ngoài trời.
Những câu có thể dùng cho các cháu nói nhanh như :
Hoa sen, hoa súng
Hoa súng, hoa sen
Buổi sáng mặt trời mọc
Mặt trời mọc buổi sáng
Nồi đồng nấu ốc
Nồi đất nấu ếch
Mục đích của việc sử dụng những câu nói nhanh là tập luyện bộ máy phát âm. Trước khi cho trẻ tập nói cô giáo phải nói mẫu, cô đọc chậm rõ ràng sau đó nói nhanh dần rồi cho trẻ tự nói thầm một mình để nhắc lại câu nói nhanh, lúc đầu cô gọi các cháu có trí nhớ tốt và có cách phát âm đúng. Đầu tiên cho trẻ nói chậm rõ ràng sau đó nói nhanh dần cô gọi tiếp các cháu còn lại nhắc lại câu nói nhanh.
Khi hướng dẫn tập nói nhanh cô giáo phải tiến hành trình tự như trên không vội vàng, hấp tấp có thể làm c...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status