Tiểu luận Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân - pdf 13

Download Tiểu luận Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân miễn phí



Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không có quy định nào về việc khôi phục chế độ sản chung sau khi chia tài sản chung .Tuy nhiên ,trong Nghị định số 70/2001/NĐ – CP tại Điều 9 và Điều 10 lại có quy định về vấn đề này .Xét về hiệu lực pháp lý ,các quy định của nghị định phải phù hợp với quy định trong luật vì luật có hiệu lực pháp lý cao hơn ,nghị định chỉ có thể quy định chi tiết việc thi hành luật mà không thể quy định trái với luật .Hơn nữa ,quy định về việc khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng trong nghị định cũng còn thể hiện một số điểm không hợp lý .Cụ thể là:
- Thứ nhất : Việc khôi phục chế độ tài sản chung chỉ có thể đặt ra khi đã chia hết tài sản chung ,nhưng không phải trong trường hợp chia tài sản chung nào trong thời kỳ hôn nhân cũng chia hết tài sản chung như đã phân tích ở trên ,vì vậy ,nếu chưa chia hết tài sản chung thì chế đọ tài sản chung vẫn đương nhiên tồn tại mà không phụ thuộc vào thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng .Ngay trong quy định tại điểm c khoản 1 Điều 9 của Nghị định số 70/2001/NĐ – CP cũng đã thể hiện rõ mâu thuẫn này .
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37403/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Toà án có hiệu pháp luật ” (1) .So với Điều 18 Hôn nhân và gia đình năm 1986 thì quy định tại Điều 29 và 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là hợp lý hơn.Việc chia một phần tài sản chung có ý nghĩa thiết thực ,phù hợp với thực tiễn đời sống chung của vợ chồng ,bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ về tài sản của vợ (chồng ) đồng thời vẫn bảo đảm đựơc lợi ích chung của gia đình.
Về phía các bên vợ chồng ,yêu cầu chia toàn bộ tài sản chung chỉ đặt ra trong những hoàn cảnh đặc biệt như phải thực hiện nghĩa vụ tài sản quá lớn mà nếu chia một phần tài sản chung thì không đủ hay một bên có yêu cầu chia khi bên kia có hành vi phá tán tài sản ,nghiện hút,cờ bạc ,…Việc chia một phần tài sản chung khác với chia toàn bộ tài sản chung ở chỗ nó không gây ra những ảnh hưởng lớn đến đời sống chung của gia đình ,không làm mất ổn định cuộc sống chung .Ngoài phần tài sản được chia riêng cho mỗi bên vợ,chồng thì phần tài sản chung còn lại không chia sẽ bảo đảm đời sống chung của gia đình .Khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ phát sinh những hậu quả pháp lý về tài sản như sau :
1.2.1 ) Quyền sở hữu riêng của vợ ,chồng đối với phần tài sản được chia :
Theo quy định tại Điều 29 và 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì vợ chồng có quyền sở hữu riêng đối với phần tài sản đã được chia và hoa lợi.lợi tức phát sinh từ phân tài sản đã được chia.
Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ – CP cũng quy định : “ Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác.”.Ví dụ : Hai vợ chồng có ba ngôi nhà là tài sản chung ,họ thoả thuận chia mỗi người được sở hữu riêng một ngôi nhà ,còn một nhà được dung làm chỗ ở chung của gia đình.Sau khi chia, vợ hay chồng có thể độc lập quyết định việc dùng ngôi nhà đã chia đó để cho thuê ,bán ,…mà không phụ thuộc vào ý chi của bên kia .Tiền thuê nhà là tài sản sản riêng của mỗi bên .Đối với những tài sản này vơ,chồng có quyền chiếm hữu ,sử dụng,định đoạt theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 .Vậy trong trường hợp này ,vợ ( chồng ) có tài sản riêng có bị hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng đó theo quy định tại khoản 5 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không ? Theo quan điểm của cá nhân thì trong trường hợp này vợ, chồng không bị ràng buộc bởi quy định tại Khoản 5 Điều 33 khi định đoạt tài sản riêng của mình vì vợ, chồng đã có sự thoả thuận trước về việc chia tài sản đó .
1.2.2 ) Quyền sở hữu chung của vợ chồng đối với phần tài sản chung :
Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “…; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng.” .Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ – CP quy định rõ thêm : “…Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu chung của vợ, chồng”.
Đối với phần tài sản chung này ,quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng không thay đổi ,chế độ sở hữu chung của vợ chồng chưa chấm dứt, nó vẫn đương nhiên tồn tại và là sở hữu chung hợp nhất. Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng sau khi chia một phần tài sản chung sẽ bao gồm :
- Phần tài sản chung của vợ chồng chưa chia.
- Hoa lợi ,lợi tức phát sinh từ những tài sản này .
- Tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, được thừa kế chung sau khi chia tài sản chung.Vì quan hệ hôn nhân vẫn đang tồn tại nên tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung ,được thừa kế chung là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng.
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi chia tài sản chung.Ví dụ : Đất được Nhà nước giao , giao khoán ,đất mà vợ chồng thuê của Nhà nước ,được chuyển nhượng ,được thừa kế chung ,cho chung..Trong những trường hợp này ,quyền sử dụng đất vẫn là tài sản chung của vợ chồng vì theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “…Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng…”.
- Quyền sử dụng đất mà mỗi bên vợ hay chồng có được sau khi chia tài sản chung do được Nhà nước giao , giao khoán ,hay được thuê của Nhà nước …Theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các Điều 24 ,Điều 25 Nghị định số 70/2001/NĐ – CP thì đây là tài sản chung của vợ chồng.Tuy nhiên , sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì quyền sử dụng đất mà mỗi bên vợ hay chồng có được chỉ là tài sản chung của vợ chồng nếu nó không liên quan đến lý do chia tài sản chung của vợ chồng .Ví dụ : Sau khi chia tài sản chung ,vợ hay chồng thuê đất hay được giao đất để đầu tư kinh doanh riêng hay nuôi trồng thuỷ sản …thì quuyền sử dụng đất đó là tài sản riêng của mỗi người .Ngược lại ,nếu vợ ,chồng yêu cầu chia một phần tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên như nghĩa vụ đền bù thiệt hại ,nghĩa vụ trả nợ,…mà sau đó vợ hay chồng được giao đất ,thuê đất …thì quyền sử dụng đất đó là tài sản chung của vợ chồng.Đây là những trường hợp đặc biệt cần được quy định cụ thể khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân .Theo quan điểm của cá nhân ,trong trường hợp này cần quy định theo hướng : Quyền sử dụng đất mà vợ chồng hay mỗi bên vợ hay chồng có được sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân vẫn là tài sản chung của vợ chồng ,trừ trường hợp quyền sử dụng đất đó có được xuất phát từ việc chia tài sản chung để đầu tư kinh doanh riêng.
- Một vấn đề rất quan trọng là tài sản mà vợ, chồng làm ra sau khi chia tài sản chung : tiền lương, tiền công lao động …là tài sản chung của vợ chồng hay là tài sản riêng của mỗi bên ? Về vấn đề này , Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không có quy định cụ thể nhưng trong Nghị định số 70/2001/NĐ – CP có quy định tại khoản 2 Điều 8 như sau : “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác”. Theo quan điểm của cá nhân thì quy định này là không hợp lý cả về lý luận và thực tiễn .Quy định này bộc lộ một số điểm bất cập và mâu thuẫn sau :
+ Thứ nhất : theo quy định tại Điều 27 thì tài sản do bất cứ ai ,vợ hay chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng , không phân biệt mức đóng góp ,mức thu nhập của mỗi bên ,không đòi hỏi phải do cả hai vợ chồng cùng trực tiếp tạo ra .Khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân ,vì hôn nhân vẫn đang tồn tại và do tính chất cộng đồng của hôn nhân chi phối nên thu nhập do lao động,hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên vợ ,chồng về nguyên tắc vẫn là tài sản chung của vợ chồng ,trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác .Nhưng theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ – CP thì cẩn phải hiểu rằng sau khi chia tài sản chung , mọi tài sản...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status