Nguyên tắc một quốc tịch và việc giải quyết các trường hợp nhiều quốc tịch và không quốc tịch - pdf 13

Download Nguyên tắc một quốc tịch và việc giải quyết các trường hợp nhiều quốc tịch và không quốc tịch miễn phí



Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về quốc tịch của Việt Nam luôn được xuyên suốt
và thể hiện trong các văn bản pháp luật, trong đó đặc biệt là nguyên tắc một quốc
tịch. Theo đó, nguyên tắc một quốc tịch được thể hiện ở chỗ: Nhà nước công nhận
công dân chỉ có một quốc tịch. Nguyên tắc này được áp dụng tại nhiều quốc gia trên
thế giới. Tại Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 quy định: "Nhà nước CHXHCN
Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam". Thể
theo quy định này, tất cả những người Việt Nam dù cư trú ở trong nước hay ngoài
nước mà chưa được Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam cho thôi quốc tịch Việt Nam đều
là người có quốc tịch Việt Nam. Công dân Việt Nam muốn nhập quốc tịch nước ngoài,
thì về nguyên tắc, họ phải thôi quốc tịch Việt Nam.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38131/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

NGUYÊN TẮC MỘT QUỐC TỊCH VÀ VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP NHIỀU QUỐC TỊCH VÀ KHÔNG QUỐC TỊCH
Chúng ta đều biết quốc tịch là sự thể hiện mối quan hệ pháp lý và chính trị gắn kết giữa một cá nhân với một Nhà nước có chủ quyền. Quốc tịch là một chế định pháp lý ra đời từ một thể chế chính trị đặc biệt, đó là Nhà nước và nó tồn tại, phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Giữa Nhà nước và quốc tịch có một có một mối quan hệ qua lại, gắn bó với nhau, không thể tách rời. Với tư cách là một chế định pháp lý để xác định một nhóm người nào đó là công dân của một Nhà nước nào đó, có thể nói rằng không thể có Nhà nước nếu thiếu những nhóm người được xác định bởi chế định quốc tịch, đó là công dân bởi vì một trong ba yếu tố cơ bản tạo thành Nhà nước là lãnh thổ, cư dân và quyền lực Nhà nước.
Như vậy, có thể nói rằng quốc tịch là cơ sở pháp lý căn bản và duy nhất để xác định
một cá nhân là công dân của một Nhà nước và trên cơ sở đó là căn cứ để phát sinh các
quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân. Với tư cách là một quan hệ
pháp lý gắn liền với nhân thân của từng cá nhân, vấn đề quốc tịch phát sinh từ khi cá
nhân đó được sinh ra và gắn liền với cá nhân đó trong suốt cuộc đời cho đến khi cá
nhân đó chết đi.
Ở Việt Nam, ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời và trở thành
một quốc gia độc lập, có đầy đủ chủ quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành ngay
văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên quy định về quốc tịch Việt Nam, đó là Sắc lệnh
số 53/SL ngày 20/10/1945. Tiếp đó, Nhà nước Việt Nam tiếp tục ban hành nhiều văn
bản quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề quốc tịch:
Sắc lệnh số 73/SL ngày 07/12/1945 quy định về việc nhập quốc tịch Việt Nam;
Sắc lệnh số 215/SL ngày 20/8/1948 ấn định những quyền lợi đặc biệt cho những người
nước ngoài đã có công giúp cuộc kháng chiến ở Việt Nam;
Sắc lệnh số 54/SL ngày 14/12/1959 bãi bỏ Điều 5 và Điều 6 của Sắc lệnh số 53/SL,
quy định quốc tịch của người phụ nữ kết hôn;
Nghị quyết số 1043/NQTVQH ngày 08/12/1971 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về
việc giao cho Hội đồng Chính phủ thẩm quyền xét và quyết định những trường hợp xin
vào hay xin thôi quốc tịch Việt Nam;
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988 được Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ ba thông qua
ngày 28/6/1988. Đây là đạo luật điều chỉnh riêng về vấn đề quốc tịch của Nhà nước
Việt Nam, đánh dấu một mốc mới trong quá trình hoàn thiện pháp luật về quốc tịch
của Nhà nước Việt Nam;
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 thay thế Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988, được
Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/5/1998. Luật Quốc tịch Việt Nam
năm 1998 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1999.
Ngoài ra các quy định về quốc tịch cũng đã được đề cập trong nhiều văn bản liên quan
khác như Hiến pháp nước CHXHCH Việt Nam tại Điều 49, 50 và 103, Bộ luật Dân sự
Việt Nam tại Điều 41, Luật Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em tại Điều 5, Điều 7.
Nhìn lại toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về lĩnh vực
quốc tịch kê từ năm 1945 cho đến nay đã thể hiện xuyên suốt một số nguyên tắc cơ
bản là:
Nguyên tắc một quốc tịch,
Nguyên tắc bảo hộ quyền có quốc tịch của công dân;
Nguyên tắc bảo hộ quyền về quốc tịch của phụ nữ khi kết hôn với người nước
ngoài;
Nguyên tắc bảo hộ quyền về quốc tịch của trẻ em khi làm con nuôi người nước
ngoài và quyền về quốc tịch của trẻ em nước ngoài khi được công dân Việt Nam xin
làm con nuôi;
Nguyên tắc bảo hộ quyền được thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước
ngoài của công dân Việt Nam và quyền được trở lại quốc tịch Việt Nam của người
gốc Việt Nam ở nước ngoài;
Nguyên tắc bảo hộ quyền của người nước ngoài xin gia nhập quốc tịch Việt Nam;
Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc.
Nguyên tắc bảo hộ quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam, kể cả đối
với công dân Việt Nam đang sinh sống tại nước ngoài;
Nguyên tắc nhân đạo.
Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về quốc tịch của Việt Nam luôn được xuyên suốt
và thể hiện trong các văn bản pháp luật, trong đó đặc biệt là nguyên tắc một quốc
tịch. Theo đó, nguyên tắc một quốc tịch được thể hiện ở chỗ: Nhà nước công nhận
công dân chỉ có một quốc tịch. Nguyên tắc này được áp dụng tại nhiều quốc gia trên
thế giới. Tại Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 quy định: "Nhà nước CHXHCN
Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam". Thể
theo quy định này, tất cả những người Việt Nam dù cư trú ở trong nước hay ngoài
nước mà chưa được Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam cho thôi quốc tịch Việt Nam đều
là người có quốc tịch Việt Nam. Công dân Việt Nam muốn nhập quốc tịch nước ngoài,
thì về nguyên tắc, họ phải thôi quốc tịch Việt Nam.
Cụ thể hoá nguyên tắc một quốc tịch của Việt Nam, Luật Quốc tịch Việt Nam năm
1998 đã đưa ra một số quy định cụ thể là:
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status