Tiểu luận Tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này - pdf 13

Download Tiểu luận Tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này miễn phí



Hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi là yêu cầu khách quan. Điều đó xuất phát từ thực tế tình hình nhận nuôi con nuôi những năm gần đây. Việc nuôi con nuôi trong nước cũng như có yếu tố nước ngoài ngày càng phát triển với số lượng lớn và có quy mô ngày càng rộng, với nhiều nước khác nhau. Trong khi đó, pháp luật nuôi con nuôi hiện hành còn tồn tại nhiều bất cập, nhiều quy định chưa rõ ràng, nhưng cũng còn những khía cạnh còn để trống, không có quy phạm điều chỉnh. Để mở đường cho việc Gia nhập Công ước Lahaye 1993, chúng ta cần tự hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về nuôi con nuôi, tạo cơ sở pháp lý an toàn, vững chắc và có độ tin cậy cao cho việc giải quyết và quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38598/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Bài làm.
A, Mở đầu.
Nhận con nuôi và được nhận làm con nuôi là quyền tự do của cá nhân, nhằm đáp ứng các nhu cầu tự nhiên của con người. Việc nuôi con nuôi thể hiện bản chất nhân ái của con người, những giá trị nhân văn mà con người hướng tới và mong muốn đạt được. Việc nuôi con nuôi chịu sự chi phối của các điều kiện kinh tế, xã hội, biểu hiện qua tôn giáo, văn hóa, phong tục tập quán, đạo đức, qua mỗi thời kỳ lịch sự đều có đặc điểm riêng. Song việc nuôi con nuôi luôn biểu hiện sự kết hợp lợi ích của các bên, đồng thời ảnh hưởng tới lợi ích chung của nhà nước và xã hội. Trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, việc cho nhận con nuôi ngày càng phát triển về quy mô và số lượng, ở trong cũng như ngoài nước, điều đó tạo cho trẻ em có cơ hội được sống trong mái ấm gia đình, nhưng cùng với nó cũng đặt ra những thách thức đòi hỏi phải hoàn thiện các thiết chế và pháp luật về nuôi con nuôi nhằm giải quyết quyết tốt việc cho nhận con nuôi, đảm bảo lợi ích cho trẻ em được nhận nuôi.
B, Nội dung
Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi là bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội và bảo đảm cho người nhận nuôi con nuôi được quan tâm, chăm sóc khi già yếu, ốm đau, bệnh tật. Xuất phát từ ý nghĩa xã hội và mục đích nhân đạo của việc nuôi con nuôi, chúng ta có thể hiểu “nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận con nuôi (cha mẹ nuôi) với người được nhận làm con nuôi” (theo Từ điển Luật học ) (1)
Hiện nay, cho và nhận nuôi con nuôi không chỉ còn là vấn đề của từng quốc gia mà cũng được rất nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. Ở Việt Nam, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài chính là quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. Quan hệ này đã được pháp luật quy định tại Điều 758 – BLDS2005 (2), và được cụ thể hóa tại Khoản 5 – Điều 3 – Luật nuôi con nuôi 2010, theo đó : “Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài.”
Tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
+ Nuôi con nuôi quốc tế tại Việt Nam bắt đầu từ những năm 70, với số lượng rất ít trong những năm 80 và bắt đầu tăng trở lại vào những năm 90. Chiến tranh Mỹ đóng vai trò quan trọng trong việc khởi xướng nhận con nuôi Việt Nam, đặc biệt là vào cuối thời kỳ chiến tranh khi bắt đầu một chương trình con nuôi ồ ạt (3). Tính đến cuối thập kỷ 90, Việt Nam vẫn là một trong các quốc gia đứng đầu với tư cách là nước cho con nuôi, với ít nhất 10.000 trẻ được cho làm con nuôi ở tất cả các nước trong thập kỷ trước. Số liệu thống kê từ các cơ quan con nuôi ở cấp Trung ương (xem Bảng 1 dưới đây) cho thấy số lượng con nuôi đi từ Việt Nam là tương đối nhiều và nhìn chung đã tăng trong những năm gần đây, dĩ nhiên là tăng với những nước có quan hệ gần gũi và với những nước đã ký Thoả thuận song phương với Việt Nam.
Bảng 1: Con nuôi từ Việt Nam đến các nước nhận nuôi với số lượng lớn từ
năm 2002 – 2008. (4)
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tổng số
Canađa 84 45 6 5 34 54 45 189
Đan Mạch 75 19 13 72 44 51 39 313
Pháp 61 234 363 790 742 268 284 2742
Ai len 81 39 16 92 68 130 181 607
Ý 90 59 6 140 238 263 313 1109
Thụy Điển 86 32 6 80 67 54 45 370
Thụy Sĩ 24 47 31 4 3 5 5 119
Hoa Kỳ 766 382 21 7 163 828 751 2918
Tổng số 1183 857 462 1190 1359 1648 1658 8357
+ Thông qua cơ chế ký kết điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi với các nước, nước ta có thể tăng cường sự hợp tác trong việc xử lý một cách tổng thể vấn đề nuôi con nuôi, giảm bớt được những rào cản về trình tự, thủ tục, giấy tờ, cũng như tăng cường cơ chế bảo vệ trẻ em. Trong năm 2003, Chính phủ Việt Nam đã điều chỉnh quy định về nuôi con nuôi, thành lập Cục Con nuôi quốc tế thuộc Bộ Tư pháp để xét duyệt việc nhận con nuôi và đưa ra những yêu cầu đối với nước nhận nuôi để ký kết thoả thuận song phương với Việt Nam. Các thoả thuận song phương đã được ký với Pháp (năm 2000), và các nước khác như Đan Mạch (2003), Ý (2003), Thuỵ Điển (2004), Ailen (năm 2004), Canada (năm 2005), tỉnh bang Québec (năm 2005), Mỹ (năm 2005), Thuỵ Sĩ (năm 2005), và Tây Ban Nha (năm 2009). Các nước nhận con nuôi trong khuôn khổ Hiệp định song phương đã uỷ quyền cho một số tổ chức con nuôi quốc tế phát triển hoạt động con nuôi ở Việt Nam. Vào giữa năm 2008 có gần 70 tổ chức con nuôi nước ngoài.
+ Trên thực tế, còn thiếu sự gắn kết giữa nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi quốc tế theo hướng ưu tiên nuôi con nuôi trong nước; nuôi con nuôi nước ngoài chỉ được coi là biện pháp thay thế cuối cùng khi không thể tìm được mái ấm cho trẻ em ở trong nước. Đây là một yêu cầu quan trọng của Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi quốc tế mà Việt Nam đang chuẩn bị ký. Nhưng hiện nay yêu cầu này chưa được bảo đảm thực thi nghiêm túc ở nước ta, do còn thiếu các biện pháp kiên quyết và hữu hiệu.
Theo Nghị định 68/2002/NĐ-CP, trước khi giải quyết cho làm con nuôi người nước ngoài, cơ sở nuôi dưỡng có trách nhiệm thông báo 30 ngày trên phương tiện thông tin đại chúng cấp tỉnh (trên báo chí, đài phát thanh, truyền hình) về việc tìm mái ấm gia đình trong nước cho trẻ em. Nhưng trên thực tế, nhiều nơi chỉ làm một cách hình thức, chiếu lệ, không bảo đảm đích thực của việc tìm mái ấm gia đình trong nước cho trẻ em. Thậm chí có nơi chỉ nộp giấy xác nhận đã thông báo trên đài phát thanh hay trên vô tuyến truyền hình, còn thực tế có thông báo hay không, lại không có sự kiểm tra, xác thực chính xác.
+ Còn tồn tại một số điểm không rõ ràng, thiếu minh bạch trong hồ sơ của trẻ em Việt Nam được cho làm con nuôi người nước ngoài. Những công bố về sự việc “trẻ bị bỏ rơi”, vốn đã được biết đến là khó điều tra, diễn ra thường xuyên một cách đáng ngạc nhiên, và không giải thích về “cao điểm khi có nhiều trẻ bị bỏ rơi” và “trầm xuống khi có ít trẻ bị bỏ rơi”. Thủ tục xác minh thực trạng đứa trẻ, và những vấn đề khác để đảm bảo có sự tự do và sự đồng ý trước khi làm con nuôi là không phù hợp và thiếu nhất quán. Việc ra quyết định về đứa trẻ có đủ điều kiện để làm con nuôi quốc tế khi không còn giải pháp nào trong nước (kể cả quay trở về với gia đình của trẻ) dường như không xem xét đến tính chất phụ trợ của con nuôi quốc tế, với rất ít hay hầu như không có sự cố gắng để xác định nhu cầu thực sự của đứa trẻ hay để tìm ra cơ hội chăm sóc ở trong nước.Qua công tác thanh tra cho thấy, có nhiều loại giấy tờ trong hồ sơ của trẻ em đã được làm để nhằm hợp pháp hóa việc cho trẻ em làm con nuôi nên không chính xác, thiếu thống nhất và chưa đầy đủ. Ví dụ như trường hợp của cháu Phan Thanh H ở Cần Thơ, có mẹ đẻ là Phan Thị M...

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status