Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam - pdf 13

Download Luận văn Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam miễn phí



Tội đưa hối lộ là hành vi của người đưa tiền, tài sản hay lợi ích vật chất khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng trở lên hay dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hay vi phạm nhiều lần cho người có chức vụ, quyền hạn để người này làm hay không làm một việc vì lợi ích hay theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Đây cũng là tội phạm nguy hiểm xâm phạm hoạt động đúng và uy tín của Bộ máy Nhà nước ta. Nó gây tác hại đến rất nhiều mặt của đời sống xã hội. Cho nên, một trong những nhiệm vụ cấp bách mà Nhà nước ta đặt ra hiện nay là chống mọi hành vi hối lộ dưới mọi hình thức. Một mặt, chúng ta phải đấu tranh kiên quyết và triệt để với tệ hối lộ, nhưng mặt khác cần đưa ra các biện pháp để xử lý nghiêm khắc hành vi nhận hối lộ của những người có chức vụ, quyền hạn, đồng thời xử phạt thích đáng những hành động đưa hối lộ và môi giới hối lộ.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38575/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

n chấp hành phần hình phạt còn lại chưa chấp hành, giảm thời hạn chấp hành phần hình phạt còn lại; và nếu đã chấp hành xong hình phạt hay các quyết định khác của Tòa án, thì họ được xóa án tích.
2.1.5. Miễn trách nhiệm hình sự cho người chưa thành niên phạm tội
Trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, nhà làm luật nước ta đã xây dựng hẳn một chương riêng quy định về trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên với mức độ giảm nhẹ đặc biệt đáng kể so với nguyên tắc chung để làm chuẩn mực xử lý các trường hợp người chưa thành niên phạm tội.
Thực tiễn cho thấy, người chưa thành niên chịu sự tác động rất lớn và chủ yếu của môi trường sống. Sự hình thành và phát triển nhân cách cũng như các đặc điểm nhân thân khác của người chưa thành niên chịu sự chi phối và bị quy định bởi sự giáo dục của môi trường gia đình, nhà trường và xã hội. Họ dễ tiếp thu những thói hư, tật xấu, dễ bị tha hóa về nhân cách và cũng dễ bị kích động, lôi kéo vào những hành động vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, nếu trong môi trường sống lành mạnh thì người chưa thành niên sẽ có những điều kiện phát triển toàn diện về thể chất cũng như tinh thần trở thành người có ích cho xã hội. Cho nên, đối với trường hợp người chưa thành niên phạm tội, ngoài trách nhiệm của bản thân họ, Nhà nước và xã hội cũng phải chịu một phần lớn trách nhiệm, vì việc quản lý và giáo dục lứa tuổi này còn có nhiều thiếu sót, do đó chưa ngăn chặn và phòng ngừa được những tác động và ảnh hưởng xấu của các tiêu cực và tệ nạn xã hội xâm nhập vào và dẫn đến việc phạm tội [20, tr. 459]. Nói một cách khác, đúng như PGS.TS Trần Đình Nhã thì "đây cũng chính là điểm chủ yếu lý giải tại sao xã hội lại tự chịu phần trách nhiệm lớn đến thế khi định ra chính sách giảm nhẹ đặc biệt đối với người chưa thành niên phạm tội" [89, tr. 520].
Việc xử lý đối tượng này chủ yếu nhằm giáo dục họ có ý thức tôn trọng pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội, giúp đỡ họ có điều kiện sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành một công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội. Chính vì vậy, trong các nguyên tắc cơ bản xử lý người chưa thành niên phạm tội được quy định trong Điều 69 Bộ luật hình sự năm 1999, nhà làm luật nước ta đã hạn chế đến mức thấp nhất việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ, hạn chế áp dụng các chế tài hình sự nghiêm khắc và bất đắc dĩ mới buộc phải áp dụng chúng, song trong mọi trường hợp khi áp dụng phải theo hướng giảm nhẹ đáng kể và thấp hơn so với người đã thành niên phạm tội trong trường hợp tương tự tương ứng. Đặc biệt, luật còn quy định trong số đó nguyên tắc xử lý có thể áp dụng biện pháp miễn trách nhiệm hình sự. Cụ thể, khoản 2 Điều này quy định "Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hay tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hay cơ quan, tổ chức nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục". Theo đó, điều kiện để người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi: Thứ nhất, người phạm tội là người chưa thành niên; thứ hai, tội phạm mà người đó thực hiện phải là tội ít nghiêm trọng hay tội nghiêm trọng, gây hại không lớn; thứ ba, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và; thứ tư, được gia đình hay cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
1) Người phạm tội là người chưa thành niên.
Khái niệm người chưa thành niên được nhà làm luật nước ta quy định vừa là đối tượng tác động của tội phạm cần được pháp luật hình sự bảo vệ đặc biệt, vừa là chủ thể của tội phạm. Là chủ thể của tội phạm, "người chưa thành niên phạm tội" là một dạng đặc thù của "người phạm tội" nói chung. Khái niệm này tồn tại như một mặt đối lập của khái niệm "người thành niên phạm tội" và ranh giới "mười tám tuổi tròn" dùng để chỉ sự ngăn cách và phân biệt giữa hai loại đối tượng này. Nói một cách khác, khái niệm "người chưa thành niên phạm tội" theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 chỉ bao gồm "những người đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự là tội phạm" (Điều 68). Việc quy định một người ở vào độ tuổi như vậy mới được coi là "người chưa thành niên phạm tội" dựa trên cơ sở kết quả của nhiều công trình nghiên cứu khoa học, vào sự khảo sát về tâm lý-xã hội và lứa tuổi, đồng thời tổng kết kinh nghiệm của thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, cũng như căn cứ vào chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người chưa thành niên phạm tội. Mặt khác, xuất phát ở chỗ người chưa thành niên có những đặc điểm riêng về tâm-sinh lý, sự hiểu biết, khả năng nhận thức về cuộc sống xã hội và pháp luật còn hạn chế, chưa đầy đủ... nên việc xử lý đối tượng này chủ yếu nhằm giáo dục họ có ý thức tôn trọng pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội, giúp đỡ họ có điều kiện sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành một công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội.
2) Tội phạm mà người chưa thành niên thực hiện phải là tội phạm ít nghiêm trọng hay tội phạm nghiêm trọng, gây hại không lớn.
ở đây tội phạm mà người chưa thành niên thực hiện phải là tội phạm ít nghiêm trọng hay tội phạm nghiêm trọng, gây hại không lớn. Về điều kiện này khác với Bộ luật hình sự năm 1985, trong Bộ luật hình sự năm 1999 nhà làm luật quy định một điểm mới là không chỉ người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng được áp dụng miễn trách nhiệm hình sự mà còn quy định cho cả người chưa thành niên phạm tội nghiêm trọng cũng được xem xét miễn trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, tội phạm nghiêm trọng ở đây khác với quy định về tội phạm nghiêm trọng trong Bộ luật hình sự năm 1985 vì tội phạm nghiêm trọng trong Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù, còn tội phạm nghiêm trọng theo Bộ luật hình sự năm 1985 là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hay tử hình. Như vậy, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định theo hướng có lợi cho người chưa thành niên phạm tội, làm cho diện (phạm vi) người chưa thành niên có thể được miễn trách nhiệm hình sự rộng hơn, và điều này thể hiện rõ nét bản chất nhân đạo trong pháp luật hình sự Việt Nam. Ngoài ra, cùng với việc người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hay tội phạm nghiêm trọng thì trong điều kiện này còn kèm theo một nội dung là tội phạm đó phải gây hại không lớn.
Tuy nhiên, việc luật quy định "người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hay tội nghiêm tr...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status