Tiểu luận Quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 2005 - pdf 13

Link tải miễn phí luận văn

- Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp sau:
+ Người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không có căn cứ pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó.
Ví dụ : Ông A thấy một căn nhà đang bỏ hoang và ông A “công khai” vào ở. Cho dù việc ông A vào ở là không có căn cứ pháp lý nào cả, nhưng nếu ông A vẫn ở một cách công khai và liên tục như vậy, không dùng thủ đoạn gì – trong suốt 30 năm – mà cũng không có ai đến đòi hay nhận đó là nhà của mình – thì ông A sẽ trở thành chủ sở hữu căn nhà đó một cách hợp pháp !

Là việc chiếm hữu của một người đối với một tài sản mà không dựa trên những cơ sở của pháp luật. Cụ thể là những trường hợp mà người chiếm hữu một tài sản nhưng không phải là chủ sở hữu hay không chiếm hữu theo những căn cứ do Bộ luật dân sự đã quy định cụ thể tại các điều luật nêu trên.
Trong việc chiếm hữu bất hợp pháp thường xảy ra hai khả năng sau đây:
Chiếm hữu bất hợp pháp ngay tình: là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật theo quy định của luật dân sự nhưng không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật . Tức là, luật không buộc người đó phải biết tính bất hợp pháp trong việc chiếm hữu của mình.
- Ví dụ : Mua nhầm phải của gian mà không biết. Người bán tài sản không phải là chủ sở hữu, không được chủ sở hữu ủy quyền bán nhưng vẫn chuyển dịch tài sản.
Chiếm hữu bất hợp pháp không ngay tình: là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật biết đó là chiếm hữu bất hợp pháp hay tuy không biết nhưng cần biết rằng, người chuyển dịch tài sản cho mình là người không có quyền chuyển dịch.
- Ví dụ: Người lớn mua hàng của trẻ em có giá trị lớn hay biết của gian nhưng vẫn mua vì giá rẻ…
- Ngoài ra trong những điều kiện nhất định: liên tục, công khai và trong một khoảng thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản, thì người chiếu hữu bất hợp pháp nhưng ngay tình còn được hưởng quyền xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. Họ có thể trở thành chủ sở hữu các tài sản dó kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu. Quy định này không áp dụng nếu tài sản đó thuộc sở hữu toàn dân
2.2 Quyền sử dụng:
- Là quyền khai thác công dụng và khai thác những lợi ích vật chất của tài sản trong phạm vi cho phép. Nguyên tắc chung là “việc khai thác những giá trị sử dụng của tài sản nhằm để thỏa mản những nhu cầu về sử dụng của tài sản nhằm để thỏa mãn nhu cầu về sinh hoạt vật chất hay tinh thần cho bản thân mình”.
- Thực hiện quyền sử dụng còn là việc dựa vào chức năng của vật mà con người khai thác lợi ích vật chất của chúng để thỏa mãn các nhu cầu trong sản xuất, kinh doanh.
- Ngoài ra, việc khai thác lợi ích vật chất của tài sản còn bao gồm cả việc thu nhận những kết quả của tài sản do tự nhiên mang lại như hưởng trứng do gia cầm đẻ ra, hoa quả trên cây, gia súc nhỏ do mẹ chúng sinh ra,…
Ví dụ: Ông A là chủ sở hữu của một vườn cây ăn trái rộng 5 ha, ông A có quyền sử dụng trái cây trong khu vườn của mình để tặng, bán,…
Như vậy, việc sử dụng một tài sản là một trong những quyền năng quan trọng và có ý nghĩa thực tế của chủ sở hữu. Chủ sở hữu có toàn quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tực của tài sản theo ý chí tùy nghi của mình. Thông thường, chủ sở hữu trực tiếp sử dụng tài sản của mình nhưng cụ thể được chuyển giao cho người khác trên cơ sở một hợp đồng hợp pháp của chủ sở hữu.
Quyền sử dụng của người không phải là chủ sở hữu:
Quyền sử dụng tài sản có thể được chuyển giao cho người khác thông qua hợp đồng hay theo quy định của pháp luật. Người không phải là chủ sở hữu có quyền sử dụng tài sản đúng chức năng, công dụng, đúng cách.
VD: A là chủ sở hữu một căn nhà cho thuê, B có nhu cầu thuê căn nhà của A. A và B đã thỏa thuận và ký hợp đồng ở UBND nên B có quyền sử dụng nhà theo những thỏa thuận đã ký với A.
-Trong một số trường hợp khác mà pháp luật quy định, cơ quan hay tổ chức cũng có quyền sử dụng tài sản trên cơ sở một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ: Cơ quan, tổ chức sử dụng tài sản bị trưng dụng.
-Người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình cũng có quyền sử dụng tài sản theo quy định của pháp luật.
VD: Sau 1975, hòa bình lập lại, nhân dân tiến hành khai hoang ruộng đất để làm ăn sinh sống. Hiện nay, nhà nước đã công nhận và cấp quyền sở hữu đất cho họ..
Tóm lại: Quyền sử dụng là một quyền năng mà pháp luật quy định cho chủ sở hữu (hay người chiếm hữu hợp pháp) được phép sử dụng các tài sản của mình nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt hay sản xuất, kinh doanh. Nhưng việc sử dụng đó không được gây thiệt hại và làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, trái với đạo đức xã hội.
2.3 Quyền định đoạt
- Là một quyền năng của chủ sở hữu để quy định về “số phận” của vật .
Chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt biểu hiện ở hai khía cạnh:
Định đoạt về số phận của các vật (tức là làm cho vật không còn trong thực tế nữa) như: tiêu dùng hết, hủy bỏ, hay từ bỏ quyền sở hữu đối với vật .
- Định đoạt về số phận pháp lý của vật là việc làm chuyển giao quyền sở hữu đối với vật từ người này sang người khác . Thông thường định đoạt về số phận pháp lý của vật phải thông qua các giao dịch phù hợp với ý chí của chủ sở hữu như bán , trao đổi , tặng cho, cho vay, để thừa kế… thông qua việc định đoạt mà chủ sở hữu có thể tiêu dùng hết; chuyển quyền chiếm hữu tạm thời (trong hợp đồng gửi giữ); quyền chiếm hữu và quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời hạn (trong hợp đồng cho thuê , cho mượn) hay chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người khác bằng hợp đồng bán , đổi, cho… Việc một người thực hiện quyền định đoạt đối với vật sẽ làm chấm dứt hay thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến vật đó .
Ví dụ: Tiêu dùng hết tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản đó. Khi bán một tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu của người đã bán nhưng lại làm phát sinh quyền sở hữu về tài sản đó đối với người mua .
Ở hai hình thức định đoạt trên chúng ta thấy rằng, trong việc định đoạt số phận thực tế của vật , chủ sở hữu chỉ cần bằng hành vi của mình tác động trực tiếp đến vật. Trong việc định đoạt về số phận pháp lý chủ sở hữu phải thiết lập với chủ thể khác một quan hệ pháp luật dân sự . Đối với hình thức định đoạt này Bộ luật dân sự đã quy định : Người định đoạt tài sản phải là người có năng lực hành vi. Nghĩa là , người đó phải có đầy đủ tư cách chủ thể. Trong những trường hợp tài sản ít giá trị (chủ yếu là động sản) việc thực hiện quyền định đoạt có thể bằng cách giản đơn: Thỏa thuận miệng, chuyển giao ngay tài sản… nhưng trong những trường hợp pháp luật có quy định trình tự , thủ tục, thì phải tuân theo những quy định đó
Để tạo điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu khi định đoạt tài sản , Bộ luật dân sự đã quy định việc ủy quyền định đoạt . Chủ sở hữu có thể ủy quyền cho người khác định đoạt tài sản , người được ủy quyền phải thực hiện việc định đoạt theo phương pháp, cách thức phù hợp với ý chí và lợi ích của chủ sở hữu.

http://download.doko.vn/thesis/231187/f ... nam-20.doc
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status