Tiểu luận Đánh giá chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật - pdf 13

Download Tiểu luận Đánh giá chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật miễn phí



MỤC LỤC
I.Đặt vấn đề: 1
II.Nội dung: 1
1.Chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật: 1
2.Đánh giá về chế độ thừa kế giữa vợ và chồng trong Bộ quốc triều hình luật: 2
-Ưu điểm: 2
-Hạn chế: 4
III.Kết luận: 4
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39039/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Bài làm
I.Đặt vấn đề:
Quốc triều hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) được ban hành dưới thời Lê Thánh Tông năm 1483, trên cơ sở sưu tập tất cả các điều luật, các văn bản pháp luật đã ban bố và thi hành trong các đời vua trước, được sửa chữa, bổ sung và quy định lại cho hoàn chỉnh.Bộ luật gồm 722 điều, chia thành 12 chương, 6 quyển. Về nội dung, ngoài những quy định chung, bộ luật đã dành từng chương để quy định các vấn đề cụ thể thuộc nhiều ngành luật (theo cách phân loại hiện nay) như: hành chính, hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, tố tụng.Quốc triều hình luật là thành tựu có giá trị đặc biệt trong lịch sử pháp luật việt nam,được ban hành trong thời kì phát triển mạnh mẽ của chế độ phong kiến trung ương tập quyền,đặc biệt là luật thừa kế đã trở thành một chế định nổi bật nhất thể hiện những nét tiến bộ của pháp luật triều Lê.Trong đó chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng có nhiều điểm mới so với các bộ luật trước và sự tiến bộ chưa hề tìm thấy trong các bộ luật phong kiến khác.
II.Nội dung:
1.Chế độ thừa kế tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật:
Trong quy định của bộ luật Hồng Đức thì việc phân chia thừa kế tài sản tùy thuộc vào việc vợ chồng có con hay không có con.Pháp luật quy định cụ thể ở điều 374,375,376.Tài sản vợ chồng được hình thành từ 3 nguồn:tài sản của chồng thừa kế từ gia đình chồng,tài sản của vợ thừa kế từ gia đình vợ,tài sản do hai vợ chồng tạo dựng trong quá trình hôn nhân.Khi gia đình tồn tại tất cả tài sản được coi là của chung.
a.Nếu vợ chồng không có con mà một người chết trước thì nảy sinh quan hệ thừa kế như sau(điều 375)
+Chồng chết trước
-Ruộng đất do nhà chồng cho được chia làm hai phần bằng nhau.Một nửa thuộc về người ăn thừa tự bên họ chồng để giữ việc tế tự,nửa kia người vợ hưởng suốt đời nhưng không được làm của riêng(nghĩa là không được bán),đến kkhi người vợ chết hay đi tái giá thì phần điền sản này thuộc về người thừa tự.Nếu cha mẹ vẫn còn sống thì thuộc về cha mẹ cả.
-Đối với tài sản do hai người tạo ra (Tần tảo điền sản) được chia làm hai phần bằng nhau.Vợ được nhận một nửa làm của riêng(vì thực chất đây là phần công sức của người vợ)nửa của người chồng chết được chia làm ba phần cho vợ hai phần để hưởng suốt đời nhưng không dùng làm của riêng và khi người vợ chết hay tái giá thì hai phần này đẻ lại cho người tế tự của chồng,cho người thờ tự của chồng một phần còn lại để giữ việc tế tự.
+ Vợ chết trước:
Việc phân chia tài sản vẫn tương tự như trên chỉ khác là chồng đi lấy vợ khác vẫn chiếm dụng một đời.Như vậy trong quan niệm của các nhà làm luật tài sản của vợ chồng có hai người được hưởng thừa kế là vợ(hay chồng còn đang sống),cha mẹ chồng hay người thừa tự bên nhà chồng
b.Trường hợp vợ chồng có con một người chết trước một người chết sau thì nảy sinh quan hệ thừa kế như trên nhưng khác ở chỗ điều 376 dành cho người chồng nhiều quyền lợi hơn điều 375:Nếu cha mẹ vợ còn sống thì cha mẹ được một nửa,chồng được một nửa(nhưng không được bán).Nếu cha mẹ vợ chết thì chồng được hưởng 2/3(toàn quyền sở hữu),người thừa tự được hưởng 1/3
c.Trường hợp vợ chồng có con,một người chết trước người kia lấy kẻ khác,không có con ở lần hôn nhân này thì người được hưởng thừa kế gồm con riêng của chồng(hay con riêng của vợ),người vợ sau hay người chồng sau.
Để bảo tồn tài sản cho con cái sau này thừa kế,nhà làm luật đã cấm người vợ khi đi tái giá và người chồng sau khi lấy vợ khac bán ruộng đất trong gia đình của lần hôn nhân trước(theo điều 377).
2.Đánh giá về chế độ thừa kế giữa vợ và chồng trong Bộ quốc triều hình luật:
-Ưu điểm:
Trong những điều luật về thừa kế thì bộ Quốc triều hình luật có rất nhiều điều mới mà các bộ luật thời nhà Đường cũng như các bộ luật Trung Hoa không đề cập.
Quốc triều hình luật phân biệt diện thừa kế tương đối hẹp,chủ yếu là những người có quan hệ gần như trực tiếp với người để lại di sản. Các nhà làm luật đã quy định rõ ràng cụ thể về chế độ thừa kế.
Các trường hợp nảy sinh quan hệ thừa kế và cách chia tài sản thừa kế.Trong điều luật các nhà làm luật đã tiên liệu khá nhiều tình huống để đảm bảo quyền lợi của cá nhân được tôn trọng và được bảo vệ bằng pháp luật,đặc biệt là quyền lợi của người phụ nữ được quan tâm và chú trọng hơn.Trong những người thuộc diện thừa kế này, Quốc triều Hình luật không phân biệt các hàng thừa kế nhưng có phân biệt trong từng trường hợp cụ thể như các trường hợp chồng(vợ)chết mà chưa có con,chồng(vợ)chết mà đã có con.
Ở đây đã có ý niệm phân biệt nguồn gốc các loại tài sản của vợ chồng.(phu điền sản,thê điền sản,phu gia điền sản,và thê gia điền sản)Quốc triều hình luật không nhắc tới động sản, chỉ đề cập tới điền sản, theo Vũ Văn Mẫu: "Điểm này cũng dễ hiểu vì trong một nền kinh tế trọng nông, các động sản khác chỉ là những vật có ít giá trị". Song trong "Hồng Đức thiện chính thư" (điều 258-259) đã không gạt hẳn các động sản ra ngoài thừa kế. "Đến như nhà cửa chỉ có thể chia làm hai, người sống được một phần làm chỗ ở, người chết được một phần làm nơi tế lễ". "Còn đến của nổi, phải để cung vào việc tế tự và theo lệ dân trả nợ miệng, còn thừa bao nhiêu cũng chia cho vợ con". "Của nổi" ở đây được hiểu là vàng, bạc, lụa, vải, thóc lúa, giường chiếu, đồ sứ, mâm thau... Như vậy, pháp luật đã ghi nhận một cách bình đẳng sự đóng góp của người vợ trong tài sản chung của vợ chồng và bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản do hai vợ chồng làm ra. Nên khi phân chia thừa kế người phụ nữ trong thời Lê đã thừa nhận quyền tài sản của người phụ nữ.Đây là điều mà không thể tìm thấy trong các bộ luật phong kiến khác.
Khác hẳn luật Trung Hoa và luật Gia Long, Luật Hồng Đức cho vợ chồng hoàn toàn bình đẳng về hôn sản.Bằng cách quy định rằng khi một người phối ngẫu chết thì người phối ngẫu còn sống bất luận là vợ hay chồng có quyền thu hồi đầy đủ quyền sở hữu về toàn bộ bất động sản phát xuất từ gia đình bố mẹ mình, về phân nửa bất động sản do hai vợ chồng tạo mãi trong thời kỳ giá thú và về phân nửa động sản còn lại sau khi đã trả lãi những món nợ. Ngoài ra người vợ còn có quyền ứng dụng thu lợi trên phần di sản của chồng đã qua đời. Lúc hai người còn sống, vợ và chồng đều bình quyền trong việc quản trị tài sản. Vì vậy trong mọi giấy tờ chuyển nhượng thường có câu: ‘mỗ ... cùng với vợ mỗ ...' và phía dưới là phần chữ ký hay điểm chỉ của cà hai vợ chồng. Vì có quyền tư hữu tài sản ngang hàng với chồng, nên người đàn bà dưới thời Hậu Lê giữ vai trò kinh tế quan trọng trong xã hội. Luật Hồng Đức tiến bộ hơn luật Âu châu và Hoa Kỳ ít ra là trên 400 năm.
Nếu như trong Hoàng Việt Luật Lệ chủ yếu th...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status