Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN - pdf 13

Download miễn phí Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN



Việc xác định thành lập khoảng bao nhiêu Toà án sơ thẩm khu vực cần dựa trên những tiêu chí nhất định như: số lượng các loại vụ án xảy ra; quy mô về địa giới hành chính; số lượng dân cư, địa bàn khu vực địa lý và điều kiện phát triển kinh tế xã hội khu vực dự kiến sẽ thành lập Toà án sơ thẩm khu vực, trong đó số lượng các vụ án dự định cho mỗi đơn vị Toà án sơ thẩm khu vực và giới hạn địa bàn khu vực địa lý là những tiêu chí cơ bản. Theo thống kê, số lượng bình quân các vụ án một năm của Toà án cấp tỉnh cỡ trung bình là khoảng 900 vụ. Nếu lấy tiêu chí về số vụ án là từ 900 vụ trở lên và có tính đến quy mô, mức độ tập trung dân cư lớn, tốc độ phát triển kinh tế xã hội, thì có khoảng 70 đơn vị Toà án cấp quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thể chuyển đổi thành Toà án sơ thẩm khu vực.
Ở khu vực các huyện đồng bằng, có thể sáp nhập hai đơn vị Toà án cấp huyện có số lượng giải quyết các vụ án hiện nay khoảng 300 vụ / năm /đơn vị để thành lập một Toà án sơ thẩm khu vực với số lượng các vụ án phải giải quyết khoảng 500 vụ /năm, tương đương với số vụ án bình quân của một Toà án cấp tỉnh cỡ nhỏ là hợp lý, phù hợp với quy mô dân số và giới hạn địa bàn hành chính cấp huyện ở khu vực này. Theo thống kê, có khoảng 80 Toà án cấp huyện hiện nay có thể chuyển đổi thành 40 Toà án sơ thẩm khu vực. Các đơn vị còn lại có số vụ án trên dưới 200 vụ án / năm, thì có thể chuyển đổi 03 đơn vị thành 01 Toà án sơ thẩm cấp khu vực.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39811/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

66% Thẩm phán cấp tỉnh và 20% Thẩm phán cấp huyện có trình độ cử nhân hay cao cấp lý luận chính trị. Về phẩm chất đạo đức, 100% Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp là Đảng viên, đa số đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức đối với người cán bộ, đảng viên theo quy định. Trên thực tế, nếu tính theo định mức xét xử hiện nay quy định đối với Toà án cấp tỉnh, cấp huyện trên các địa bàn và tổng số lượng án phải thụ lý, xét xử với tỷ lệ gia tăng án hàng năm là 15%, trong vòng 5 năm tới ngành Toà án nhân dân cần bổ sung mỗi năm khoảng 1000 người, trong đó có khoảng 500 Thẩm phán, thì mới đáp ứng yêu cầu công tác xét xử. Tuy nhiên, vấn đề lo ngại không chỉ dừng ở việc thiếu số lượng mà vấn đề về trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ Thẩm phán cũng đang được đặt ra trước yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế do trình độ, năng lực của đội ngũ Thẩm phán về ngoại ngữ và kiến thức pháp luật quốc tế còn nhiều hạn chế, trong khi đó đã bắt đầu phát sinh nhiều loại vụ án phức tạp cả về hình sự, dân sự, kinh doanh - thương mại, lao động có yếu tố nước ngoài.
Về cơ sở vật chất của các Toà án, do trong thời gian dài không được quan tâm đúng mức và do tình hình chia tách địa giới hành chính, cấp tỉnh, cấp huyện trong hơn 10 năm qua nên hiện nay trụ sở làm việc và hội trường xét xử của nhiều Toà án, nhất là ở cấp huyện còn thiếu thốn, chật chội, thậm chí có đơn vị vẫn chưa được cấp đất để xây dựng trụ sở mà phải thuê nơi làm việc và phòng xét xử. Bên cạnh đó, phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động, chế độ chính sách đối với Toà án được cấp như định mức đối với cơ quan hành chính sự nghiệp chưa thực sự phù hợp với tính chất đặc thù của công tác xét xử, từ đó làm hạn chế đến hiệu quả công tác của các Toà án.
Về hoạt động xét xử của các Toà án, trong những năm gần đây, số lượng các loại vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án liên tục gia tăng mạnh, trung bình mỗi năm tăng khoảng 15% làm cho công việc của các Tòa án ngày càng quá tải. Riêng năm 2007 (số liệu tính từ 1/10/2006 đến 30/9/2007), tổng các loại vụ án mà Tòa án nhân dân các cấp thụ 1ý, xét xử là 256.647 vụ, tăng 23.806 vụ so với năm 2006, trong đó Tòa án cấp huyện thụ lý, xét xử sơ thẩm 204.563 vụ; Tòa án cấp tỉnh thụ lý xét xử 45.821 vụ (bao gồm sơ thẩm 18.683 vụ, phúc thẩm 26.739 vụ và giám đốc thẩm, tái thẩm 399 vụ); Tòa án nhân dân tối cao thụ lý, xét xử 6.263 vụ (bao gồm phúc thẩm 5.747 vụ, giám đốc thẩm, tái thẩm 516 vụ) và xem xét, xử lý 10.999 đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
2. Những bất cập và tồn tại chính về tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án hiện nay
Qua nghiên cứu, khảo sát, đánh giá về thực tiễn tổ chức và hoạt động của các Toà án nhân dân cho thấy một số tồn tại và bất cập chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, thẩm quyền xét xử của mỗi Toà án hiện đang được xác định vừa theo lãnh thổ, vừa theo tính chất các vụ việc và thủ tục giải quyết, xét xử các vụ án. Theo quy định của pháp luật tố tụng, thì Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, các Toà án cấp trên đều có thẩm quyền xét xử hỗn hợp hay vừa phúc thẩm, vừa giám đốc thẩm như của Toà án nhân dân tối cao, hay có đầy đủ cả ba thẩm quyền xét xử theo trình tự giải quyết một vụ án, đó là vừa xét xử sơ thẩm, vừa phúc thẩm, vừa giám đốc thẩm, tái thẩm như ở Toà án cấp tỉnh. Điều này là không thể hiện đúng, chính xác tính chất hoạt động, vai trò, vị trí của Toà án mỗi cấp quy định trong hệ thống Toà án. Trên thực tế, mặc dù đã từng bước tăng thẩm quyền xét xử cho các Toà án nhân dân cấp huyện, nhưng các Toà án nhân dân cấp tỉnh vẫn phải giải quyết số lượng không nhỏ các vụ án theo thủ tục sơ thẩm mà lẽ ra các vụ án này phải được xét xử, giải quyết ở Toà án cấp huyện với tư cách là Toà án sơ thẩm trong hệ thống Toà án. Các bản án, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Toà án nhân dân cấp tỉnh, về mặt lý thuyết và cả trên thực tế vẫn có thể bị huỷ bởi Toà án nhân dân tối cao nên làm hạn chế ý nghĩa pháp lý của chế định giám đốc thẩm; tái thẩm. Đối với Toà án nhân dân tối cao vẫn tiếp tục giải quyết, xét xử phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị và trên thực tế, không ít các bản án, quyết định phúc thẩm của các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đã bị kháng nghị và bị huỷ theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bởi chính Toà án nhân dân tối cao vô hình trung đã làm ảnh hưởng đến vai trò, uy tín pháp lý của Toà án nhân dân tối cao với tư cách là cơ quan xét xử cao nhất trong hệ thống Toà án. Bên cạnh đó, việc pháp luật quy định chế định giám đốc thẩm, tái thẩm là nhằm tạo cơ chế khắc phục các sai lầm trong việc giải quyết, xét xử các vụ án và để thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và đường lối xét xử trên bình diện chung của cả hệ thống Toà án. Tuy nhiên, việc có quá nhiều cơ quan có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm (gồm 63 Toà án cấp tỉnh, 5 Toà chuyên trách của Toà án nhân dân tối cao và Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao), thì mục tiêu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và xác định đường lối xét xử chung của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ bị ảnh hưởng. Trên thực tế, đã có những quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, hay thậm chí có trường hợp quyết định giám đốc thẩm của Toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao bị Hội đổng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ. Ngoài ra, việc có nhiều cấp giám đốc thẩm cùng với quy định không hạn chế về điều kiện kháng nghị và thủ tục không rõ ràng trong việc xem xét đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, một mặt làm cho việc giải quyết một vụ án kéo dài, thậm chí không có điểm dừng, mặt khác làm mất tính ổn định trong các phán quyết của Tòa án và ở một chừng mực nào đó làm vô hiệu hóa nguyên tắc Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.
Thứ hai, về nhiệm vụ và tổ chức công việc của Toà án các cấp, ở Toà án nhân dân tối cao vẫn còn nặng về xét xử phúc thẩm bên cạnh việc thực hiện các nhiệm vụ rất quan trọng khác là giám đốc việc xét xử của các Toà án, tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, quản lý các Toà án địa phương về tổ chức; Toà án nhân dân cấp tỉnh, tuy có vị trí là Tòa án cấp dưới, nhưng có vai trò vừa là Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm, vừa là một cấp giám đốc thẩm, tái thẩm, ngoài ra còn có nhiệm vụ quản 1ý các Tòa án cấp huyện về tổ chức theo phân cấp của Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, sức ép về công việc đối với Toà án nhân dân cấp tỉnh cũng không phải nhỏ, nhất và đối với Toà án của các thành phố lớn. Đối với Toà án nhân dân cấp huyện, do đ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status