Hoàn thiện quá trình lập và phát hành báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính tại CPA Hanoi - pdf 15

Link tải miễn phí luận văn Hoàn thiện quá trình lập và phát hành báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính ở Công ty Kiểm toán và Kế toán Hà Nội- CPA Hanoi

Lời nói đầu

Để từng bước hoà nhập với kinh tế khu vực và Thế giới, Đảng và Nhà nước ta đ• chủ trương chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN . Sự phát triển nhanh chóng và bền vững của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải được cung cấp thông tin tài chính hoàn hảo có độ tin cậy cao với sự kiểm tra và xác nhận của kiểm toán độc lập. Hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng đ• và đang khẳng định được vai trò tích cực trong quản lý, điều hành nền kinh tế vĩ mô và vi mô. Do nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động kiểm toán độc lập nên em đ• chọn thực tập tại công ty Kiểm toán và Kế toán Hà Nội (CPA Hà Nội ).
Sau một thời gian ngắn thực tập tại Công ty, em đ• có những hiểu biết ban đầu về quy trình thực hiện cũng như các giai đoạn cụ thể một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính. Nhận thức được tầm quan trọng của quá trình lập và phát hành báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính đối với một cuộc kiểm toán cũng như những ưu điểm và tồn tại của Công ty trong giai đoạn này, em đ• lựa chọn đề tài: “ Hoàn thiện quá trình lập và phát hành báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính ở Công ty Kiểm toán và Kế toán Hà Nội- CPA Hanoi”.
Nội dung của luận văn bao gồm :
Chương 1:Lý luận chung về báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính
Chương 2: Thực trạng lập và phát hành báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính ở Công ty Kiểm toán và Kế toán Hà nội
Chương 3: Hoàn thiện quá trình lập và phát hành cáo kiểm toán báo cáo tài chính
Vì thời gian và trình độ còn hạn chế nên những thiếu sót là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của Giám đốc Công ty cũng như các phòng nghiệp vụ và đặc biệt là thầy Vương Đình Huệ đ• giúp em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.

Chương 1
Lý luận chung về báo cáo kiểm toán
báo cáo tài chính



1.1 Mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính
1.1.1 Khái niệm kiểm toán báo cáo tài chính
Kiểm toán báo cáo tài chính (Audit of Financial Statements ) là sự kiểm tra và trình bày ý kiến nhận xét của kiểm toán viên về tính trung thực hợp lý, tính hợp thức và tính hợp pháp của các báo cáo tài chính.
- Tính trung thực và hợp lý:
+ Trung thực: Là các thông tin tài chính phản ánh đúng nội dung, bản chất và thực trạng các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
+ Hợp lý: Là các thông tin tài chính trên báo cáo tài chính đảm bảo độ tin cậy cần thiết, không có các sai phạm xét trên các khía cạnh trọng yếu.
Do tính chủ quan của kế toán nên không thể có các thông tin tài chính phản ánh tuyệt đối chính xác tình hình tài chính của đơn vị. Vì vậy, khi nhận xét về độ tin cậy của các thông tin tài chính, kiểm toán viên không thể sử dụng thuật ngữ “ chính xác”, mà sử dụng thuật ngữ “ hợp lý”.
- Tính hợp thức: Một báo cáo tài chính được coi là hợp thể thức khi được lập phù hợp và tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành ( hay được chấp nhận ).
- Tính hợp pháp : các báo cáo tài chính đảm bảo hợp lệ theo các quy định hiện hành và các thông tin tài chính đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật có liên quan.
1.1.2 Chủ thể kiểm toán báo cáo tài chính
Chủ thể của kiểm toán báo cáo tài chính có thể là kiểm toán viên Nhà nước, kiểm toán viên nội bộ hay kiểm toán viên độc lập.
1.1.2.1 Kiểm toán viên Nhà nước
Kiểm toán viên là công việc kiểm toán do các cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước (Tài chính, Thuế…) và các cơ quan kiểm toán Nhà nước chuyên trách tiến hành. Kiểm toán viên thường tiến hành các cuộc kiểm toán tuân thủ, xem xét việc chấp hành các chính sách, luật lệ và chế độ của Nhà nước tại các đơn vị có sử dụng vốn là kinh phí của Nhà nước. Ngoài ra, kiểm toán viên Nhà nước còn thực hiện kiểm toán hoạt động để đánh tính hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động của các đơn vị nói trên.
1.1.2.2 Kiểm toán viên nội bộ

Chức năng quan trọng và chủ yếu nhất của kiểm toán viên nội bộ là thực hiện các cuộc kiểm toán hoạt động trong đơn vị. Tuy vậy, kiểm toán hoạt động cũng có thể tiến hành cùng với kiểm toán báo cáo tài chính.
Khác với kiểm toán bên ngoài, trong khi kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên nội bộ còn kiểm toán cả các báo cáo kế toán quản trị và báo cáo kế toán tài chính của các đơn vị thành viên trực thuộc. Mục đích kiểm toán báo cáo tài chính của kiểm toán viên nội bộ là giúp chủ doanh nghiệp ( hay thủ trưởng đơn vị ) ký duyệt các báo cáo tài chính. Do tính độc lập của kiểm toán viên nội bộ bị hạn chế nên về nguyên tắc, kiểm toán nội bộ các báo cáo tài chính không thể thay thế cho các kiểm toán viên ở bên ngoài (kiểm toán Nhà nước và kiểm toán độc lập )
1.1.2.3 Kiểm toán viên độc lập
Nhu cầu kiểm tra, xác nhận báo cáo tài chính đ• làm nảy sinh kiểm toán độc lập. Kiểm toán độc lập chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài chính. Ngoài ra, tuỳ từng trường hợp vào yêu cầu của khách hàng, kiểm toán viên độc lập còn có thể thực hiện kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ hay tiến hành các dịch vụ tư vấn tài chính kế toán khác.
ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, kiểm toán báo cáo tài chính do các kiểm toán viên độc lập của các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp thực hiện là hoạt động mang tính thông lệ phổ biến. Doanh thu từ kiểm toán báo cáo tài chính thường chiếm trên 50% tổng doanh thu của các công ty kiểm toán hàng đầu Thế giới.
1.1.3 Mục đích kiểm toán báo cáo tài chính
1.1.3.1 Rủi ro thông tin tài chính và các biện pháp khắc phục
a. Rủi ro thông tin tài chính
Các thông tin được trình bày trên báo cáo tài chính có thể bị sai lệch so với thực tế do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan. Chẳng hạn:
- Sự xuyên tạc, bóp méo các thông tin tài chính theo động cơ của người cung cấp thông tin. Trên thực tế, có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, tuỳ từng trường hợp vào đối tượng quan tâm cũng như mục đích của doanh nghiệp, mà kế toán phải lập và cung cấp các báo cáo tài chính. Các đối tượng quan tâm đến hoạt động doanh nghiệp có thể kể tới: ngân hàng, cơ quan thuế, người lao động, nhà đầu tư..
+ Ngân hàng: Cạnh tranh là một nét đặc trưng trong nền kinh tế thị trường. Để nâng cao sức mạnh cạnh tranh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải từng bước hiện đại hoá sản xuất nhằm giảm thiểu chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải có vốn đầu tư vào trang thiết bị công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất … Tuy nhiên, các doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào nguồn vốn tự có, mà cần vay vốn ngân hàng. Để vay vốn, doanh nghiệp cần lập và gửi báo cáo tài chính tới ngân hàng cũng như chứng minh rằng doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và kinh tế. Chính vì những điều kiện nêu trên, mà các thông tin tài chính sẽ được trình bày theo hướng tối đa hoá lợi nhuận nhằm phụ vụ mục đích vay vốn của doanh nghiệp.
+ Nhà đầu tư: Trong cơ chế thị trường, do tính đa phương hoá đầu tư và đa dạng hoá các thành phần kinh tế nên trong một doanh nghiệp có thể có nhiều nhà đầu tư. Để thu hút đầu tư, doanh nghiệp cũng cần chứng minh rằng hoạt động của mình có hiệu quả và kinh tế. Do vậy, báo cáo tài chính gửi tới các nhà đầu tư cũng được trình bày theo hướng tối đa hoá lợi nhuận.
+ Các cơ quan thuế: Tất cả các doanh nghiệp đều phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp luôn muốn giảm thiểu phần nghĩa vụ thuế phải đóng góp cho Nhà nước. Vì vậy, các báo cáo tài chính được gửi cho các cơ quan thuế sẽ được trình bày theo hướng tối thiểu hoá lợi nhuận.
- Tính phức tạp và quy mô của công ty: Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có mối quan hệ rộng cũng như chịu sự tác động từ nhiều phía. Vì vậy, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong doanh nghiệp ngày càng nhiều và mới mẻ, dẫn đến việc hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp chưa đáp ứng kịp thời. Từ đó, có thể gây ra rủi ro thông tin tài chính.
- Ngoài ra, sự cách trở của thông tin từ người cung cấp đến những người sử dụng cũng dẫn đến các rủi ro thông tin.
Chính vì một số các nguyên nhân nêu trên mà các thông tin trên báo cáo tài chính có thể bị trình bày sai lệch so với thực tế và do đó, cần có các biện pháp hạn chế rủi ro thông tin tài chính.
b. Các biện pháp khắc phục rủi ro thông tin
- Những người sử dụng thông tin trực tiếp thẩm định lại độ tin cậy của các thông tin được trình bày trên báo cáo tài chính. Tuy nhiên, biện pháp này khó thực hiện trên thực tế và cũng không kinh tế. Cho dù những người sử dụng thông tin trực tiếp thẩm định lại thông tin thì các sai sót trọng yếu vẫn có khả năng xảy ra.
- Pháp luật có thể chia sẻ các rủi ro thông tin với người sử dụng bằng cách đưa ra các quy định, các chế tài xử phạt vi phạm kế toán của người cung cấp thông tin. Tuy nhiên, trong thực tế, biện pháp này cũng chưa hữu hiệu và chưa thực sự bảo vệ được lợi ích của những người sử dụng thông tin.
- Báo cáo tài chính trước khi được công khai phải được kiểm toán một cách độc lập và khách quan bởi một bên thứ ba. Biện pháp này sẽ khắc phục được những nhược điểm của các giải pháp nêu trên cũng như đảm bảo được tính kinh tế, tính hiệu lực và tính hiệu quả. Chính vì vậy, kiểm toán nói chung và kiểm toán báo các tài chính nói riêng đ• ra đời và ngày càng phát triển.
1.1.3.2 Mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính
Chúng ta đều biết rằng, các báo cáo tài chính hàng năm do các doanh nghiệp lập ra là đối tượng quan tâm của nhiều người: các chủ doanh nghiệp, các cổ đông, các thành viên Hội đồng quản trị, các doanh nghiệp bạn, ngân hàng và chủ đầu tư… Luật thuế, luật lao động, luật bảo vệ môi trường… cũng cho thấy sự quan tâm của Chính phủ, người tiêu dùng, công nhân của doanh nghiệp cũng như x• hội nói chung đối với báo cáo tài chính của doanh nghiệp.Tuy mỗi đối tượng quan tâm đến báo cáo tài chính của doanh nghiệp ở mỗi góc độ khác nhau nhưng tất cả đều cần một báo cáo tài chính có độ tin cậy cao, chính xác và trung thực. Do đó cần có một bên thứ ba, độc lập và khách quan, có kiến thức nghề nghiệp, uy tín và trách nhiệm pháp lý để kiểm tra, xem xét và đưa kết luận là báo cáo tài chính đó có được lập phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực và phương pháp kế toán hay không, có phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính của doanh nghiệp hay không. Đó chính là công việc của kiểm toán viên độc lập thuộc các công ty kiểm toán chuyên nghiệp. Luật pháp ở nhiều nước đ• quy định rằng, chỉ có những báo cáo tài chính đ• được xem xét và có chữ ký xác nhận của kiểm toán viên mới được coi là hợp pháp để làm cơ sở cho Nhà nứoc tính thuế cũng như các bên quan tân giải quyết các mối quan hệ kinh tế khác đối với doanh nghiệp.
Như vậy, mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính là nhằm xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong báo cáo tài chính để thoả m•n nhu cầu của các đối tượng sử dụng thông tin.
1.2 Lý luận chung về báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính
1.2.1 Định nghĩa báo cáo kiểm toán
Theo chuẩn mực kiểm toán Quốc tế cũng như chuẩn mực kiểm toán Việt nam, báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính được định nghĩa như sau :
Báo cáo kiểm toán là loại báo cáo bằng văn bản do kiểm toán viên và công ty kiểm toán lập và công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về báo cáo tài chính của một đơn vị đ• được kiểm toán.(Chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 700)
1.2.2 Nội dung báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính
1.2.2.1 Các yếu tố của một báo cáo kiểm toán báo cáo cáo tài chính
Báo cáo kiểm toán phải được trình bày nhất quán về hình thức và kết cấu để người đọc hiểu thống nhất và nhận biết khi có tình huống bất thường xảy ra. Các yếu tố cơ bản của một báo cáo kiểm toán, bao gồm:
a . Tên và địa chỉ công ty kiểm toán
b . Số hiệu báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính
c . Tiêu đề báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính
d. Người nhận báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính
e . Mở đầu báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính
. Nêu rõ đối tượng của cuộc kiểm toán
. Nêu trách nhiệm của Giám đốc ( hay người đứng đầu ) đơn vị được kiểm toán và trách nhiệm của kiểm toán viên cùng công ty kiểm toán
f. Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán
. Nêu chuẩn mực kiểm toán đ• áp dụng để thực hiện cuộc kiểm toán
. Nêu những công việc và thủ tục mà kiểm toán viên đ• thực hiện
g . ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán về báo cáo tài chính đ• được kiểm toán
h. Địa điểm và thời gian lập báo cáo kiểm toán
i. Chữ ký và đóng dấu
1.2.2.2 Các nội dung cơ bản của một báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính
- Tên và địa chỉ công ty kiểm toán :
Trong báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính cần nêu rõ tên,biểu tượng, địa chỉ giao dịch, số điện thoại, số fax và các số hiệu liên lạc khác của công ty kiểm toán( hay chi nhánh ) phát hành báo cáo kiểm toán.
Trường hợp có từ hai công ty kiểm toán trở lên cùng thực hiện một cuộc kiểm toán thì phải ghi đầy đủ các thông tin nêu trên của các công ty cùng ký vào báo cáo kiểm toán.
- Số hiệu báo cáo kiểm toán :
Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ số hiệu phát hành báo cáo kiểm toán của công ty hay chi nhánh công ty kiểm toán theo từng năm ( số hiệu đăng ký chính thức trong hệ thống văn bản của công ty hay chi nhánh công ty kiểm toán ).
- Tiêu đề báo cáo kiểm toán :
Báo cáo kiểm toán phải có tiêu đề rõ ràng và thích hợp để phân biệt với báo cáo do người khác lập. Chuẩn mực kiểm toán quốc tế quy định, báo cáo kiểm toán phải có từ “ độc lập”. Quy định tiêu đề phải có từ “ độc lập” nhằm mục đích thông báo cho người sử dụng biết là cuộc kiểm toán được tiến hành vô tư trên mọi phương diện.
- Người nhận báo cáo kiểm toán :
Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ người được nhận báo cáo kiểm toán phù hợp với hợp đồng kiểm toán. Người nhận báo cáo có thể là Hội đồng quản trị, Giám đốc hay cổ đông đơn vị được kiểm toán. Ví dụ : “ kính gửi Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Tổng công ty ...”
Báo cáo kiểm toán phải được đính kèm với báo cáo tài chính được kiểm toán.
- Mở đầu của báo cáo kiểm toán, bao gồm :
+ Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ các báo cáo tài chính bao gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ... là đối tượng của cuộc kiểm toán cũng như ghi rõ ngày lập và phạm vi niên độ tài chính mà báo cáo tài chính đó phản ánh.
+ Báo cáo kiểm toán phải khẳng định rõ ràng việc lập báo cáo tài chính là thuộc trách nhiệm của giám đốc (hay người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán. Trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán là đưa ra ý kiến về các báo cáo tài chính dựa trên kết quả kiểm toán của mình.
Báo cáo tài chính phản ánh các thông tin kinh tế tài chính của doanh nghiệp. Việc lập báo cáo tài chính đòi hỏi Giám đốc (hay người đứng đầu ) đơn vị phải tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hay được chấp nhận; phải lựa chọn các nguyên tắc và phương pháp kế toán cũng như phải đưa ra các ước tính kế toán và các xét đoán thích hợp. Ngược lại, trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán là kiểm tra các thông tin trên báo cáo tài chính và đưa ra ý kiến về các báo cáo này.
- Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán
Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán bằng cách khẳng định rằng công việc kiểm toán đ• được thực hiện theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, hay chuẩn mực kiểm toán Quốc tế được chấp nhận. Điều đó chỉ khả năng của kiểm toán viên thực hiện các thủ tục kiểm toán xét thấy cần thiết tuỳ theo từng tình huống cụ thể. Thủ tục này là cần thiết để đảm bảo cho người đọc báo cáo kiểm toán hiểu rằng cuộc kiểm toán đ• được thực hiện theo các chuẩn mực và thông lệ được thừa nhận. Trong trường hợp riêng biệt, kiểm toán viên đ• thực hiện các thủ tục kiểm toán khác thì cần ghi rõ trong báo cáo kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ là công việc kiểm toán đ• được lập kế hoạch và thực hiện để có sự đảm bảo hợp lý là các báo cáo tài chính không còn chứa đựng các sai sót trọng yếu.
Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ các công việc thực hiện , bao gồm :
+ Các phương pháp kiểm toán (chọn mẫu, thử nghiệm cơ bản,...) những bằng chứng kiểm toán đủ để xác minh được các thông tin trong báo cáo tài chính
+ Đánh giá việc tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hay được chấp nhận ), các nguyên tắc và phương pháp kế toán được áp dụng để lập báo cáo tài chính
+ Đánh giá các ước tính kế toán và xét đoán quan trọng đ• được Giám đốc ( hay ngưòi đứng đầu ) đơn vị được kiểm toán thực hiện khi lập báo cáo tài chính.
+ Đánh giá việc trình bày toàn bộ tình hình tài chính trên các báo cáo tài chính. Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ là cuộc kiểm toán đ• cung cấp những cơ sở hợp lý để làm căn cứ cho ý kiến của kiểm toán viên.
- ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán về báo cáo tài chính được kiểm toán
Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán về các báo cáo tài chính trên phương diện phản ánh (hay trình bày) trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu, trên phương diện tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hay được chấp nhận), và việc tuân thủ các quy định pháp lý có liên quan.
- Địa điểm và thời gian lập báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ ngày, tháng, năm kết thúc toàn bộ công việc kiểm toán. Điều này cho phép người sử dụng báo cáo tài chính biết rằng kiểm toán viên đ• xem xét đến các sự kiện (nếu có) ảnh hưởng tới báo cáo tài chính hay báo cáo kiểm toán cho đến tận ngày ký báo cáo kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ địa điểm (tỉnh, thành phố) của công ty hay chi nhánh công ty kiểm toán chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán.
Ngày ký báo cáo kiểm toán không đựơc ghi trước ngày Giám đốc (hay người đứng đầu ) đơn vị ký báo cáo tài chính. Trường hợp báo cáo tài chính được điều chỉnh và lập lại trong quá trình kiểm toán thì ngày ký báo cáo kiểm toán được phép ghi cùng ngày ký báo cáo tài chính.
- Chữ ký và đóng dấu


7BYGA68w0WVS16E
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status