Báo cáo Vitamin tan trong chất béo - pdf 16

Download miễn phí Báo cáo Vitamin tan trong chất béo



Sự thiếu hụt Vitamin E lâm sàng thì hiếm, và liên quan đến sự kém hấp thu và tính bất thường trong vận chuyển lipid. Những người có chứng kém hấp thu chất béo như bệnh tiêu chảy mỡ, chứng xơ hóa nang và hội chứng sau khi cắt bỏ dạ dày có thể có sự thiếu hụt Vitamin E mãn tính và trầm trọng. Những trẻ sơ sinh thiếu tháng hay trẻ có trọng lượng khi sinh ra rất thấp với dự trữ của cơ thể thấp và suy kém hấp thu tại ruột non cũng như tốc độ phát triển gia tăng cũng có nguy cơ thiếu hụt Vitamin E. Người với những rối loạn tế bào hồng cầu di truyền, ví dụ bệnh hồng cầu liềm và những bệnh nhân bị bệnh tán huyết, cũng có thể bị thiếu hụt Vitamin E. Ở người lớn, triệu chứng và những dấu hiệu thiếu hụt bao gồm sự thoái hóa cơ, vỡ tế bào hồng cầu (dẫn đến thiếu máu tán huyết) và vô sinh. Các triệu chứng đi kèm với hội chứng thần kinh tiến triển từ việc thiếu hụt Vitamin E, bao gồm bệnh học thần kinh tiến triển với sự vắng mặt hay biến đổi các phản xạ, sự mất điều hòa, yếu chi và sự mất cảm giác ở cánh tay và chân.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ta-caroten, còn gọi là tiền sinh tố A. Chất này lại chỉ có trong thực phẩm rau trái như: rau dền, cà rốt, cải broc-coli, bí rợ, cà chua, ớt bị, đu đủ, gấc, dưa hấu, khoai ta... Tiền sinh tố A là thành phần làm trái cây có màu vàng cam, rau cải có màu xanh thẫm.
Bảng chiết tính hàm lượng sinh tố A
Trọng lượng
Thực phẩm
Lượng sinh tố A
100g 100g 100g 100g 100g 100g 100g
Gan bò Gan heo Trứng gà Rau dền Cà rốt Cà chua Cải broccoli
6mg 4mg 0,5mg 1mg 1,2mg 0,6mg 0,8mg
Vitamin A và carotenoid trong thực phẩm, ảnh hưởng của các quá trình bảo quản và chế biến tới hàm lượng Vitamin A trong thực phẩm:
Nhìn chung ở hạt, hàm lượng carotenoid không cao. Riêng đối với ngô, đặc biệt là ngô vàng hàm lượng carotenoid tính theo beta-caroten đạt từ 60-600 gamma trên 100g hạt, ngô trắng chỉ có khoảng 5 gamma.
Trứng gà là nguồn Vitamin A và carotenoid rất quí, tập trung chủ yếu ở lòng đỏ trứng. Chỉ cần một lượng nhỏ Lipit (của lòng đỏ) bị oxi hóa là đủ để oxi hóa hoàn toàn Vitamin A của trứng. Vì vậy nên bảo quản trứng ở nhiệt độ thấp và ở các thiết bị chứa khí Nitơ.
Thông thường cả Vitamin A và Carotenoid đều bền đối với nhiệt, nhưng nhiệt độ cao lại phá hủy chúng gián tiếp qua hiện tượng oxi hóa mà chúng đều rất nhạy cảm.
Động vật càng béo càng chứa nhiều Vitamin A.
Ở pH trung tính và kiềm, nhiệt sẽ phá hủy dễ dàng các loại vitamin trong đó có Vitamin A và Carotenoid.
Vitamin A và Carotenoid không bền với nhiệt độ khi có cả oxi và ánh sáng.
Thời gian gần đây để duy trì được Vitamin A trong thịt, người ta còn thêm cả Vitamin C và E là những vitamin chỉ tồn tại rất ít trong thịt. Acid Ascorbic là chất chống oxi hóa có khả năng bảo vệ được cả Vitamin A và E, do nó có thể nhường H trực tiếp cho các peroxyt. Trong quá trình này Vitamin E đóng vai trò trung gian. Khi nấu nướng thông thường, các vitamin tan trong dầu chỉ bị phá hủy ít do tác dụng của oxi không khí.Vd: sự mất Vitamin A ở gan dưới 10%.
VITAMIN D
LỊCH SỬ:
Các công trình nghiên cứu về Vitamin D được bắt đầu từ năm 1916. Tới năm 1931 người ta đã tổng hợp thành công Vitamin D.
CẤU TẠO HÓA HỌC:
Vitamin D là dẫn suất của strerol. Một số sterol được gọi là tiền vitamin D, vì khi các sterol này được chiếu bằng tia tử ngoại (các tia có độ dài sóng 280 -- 310µm) thì chúng chuyển thành vitamin D. Hiện nay người ta đã biết có 6 chất vitamin D và gọi tên là D2, D3, D4, D5, D6 và D7. Tuy nhiên chỉ 2 dạng đầu, D2 và D3 là phổ biến và có ý nghĩa hơn cả.
Vitamin D2 (dẫn xuất của ergosterol)
Vitamin D3 (dẫn xuất của colesterol)
Vitamin D2 và D3 là các tinh thể nóng chảy ở nhiệt độ 115-1160C, không màu, không hòa tan trong nước mà chỉ hòa tan trong mỡ và dung môi của mỡ như Cloroform, Benzen, Aceton, Rượu…
Vitamin D dễ dàng bị phân hủy khi có mặt các chất oxi hóa và acid vô cơ.
Dưới ánh sáng thì vitamin D2 và D3 được tổng hợp theo sơ đồ sau:
CHỨC NĂNG SINH HỌC:
Vitamin D không chỉ bảo đảm sự phát triển bình thường của bộ xương, duy trì sự cân bằng canxi nội môi, duy trì hằng định nồng độ canxi ngoài tế bào, tham gia kiểm soát nồng độ canxi trong máu cùng với hormon cận giáp trạng (PTH) và calcitonin mà còn tham gia vào quá trình biệt hóa tế bào, điều hòa miễn dịch, điều hòa huyết áp... và phòng chống ung thư.
Là vitamin của nắng...
Ngoại trừ trẻ sơ sinh, một phần nhu cầu vitamin D của trẻ được huy động từ nguồn dự trữ từ khi còn là bào thai, vitamin D được đưa vào cơ thể qua thức ăn như gan, trứng, bơ, dầu cá thu, cá hồi, cá dầu... dưới dạng vitamin D hay các chất tiền vitamin D (ergosterol và 7 dehydrocholesterol), và được cơ thể tổng hợp ở da. Do vậy, vitamin D được mệnh danh là vitamin của nắng.
Vitamin D từ thức ăn được cơ thể hấp thu ở phần ruột non (chủ yếu ở tá tràng), rồi theo hệ thống bạch mạch vào máu. Vì một bệnh lý nào đó gây rối loạn sự bài tiết mật, chẳng hạn bị tắc mật, xơ gan, viêm gan... thì quá trình hấp thu vitamin D sẽ bị ảnh hưởng. Và vì bất kỳ lý do gì làm trở ngại tới sự hấp thu mỡ, chẳng hạn viêm tụy, cũng sẽ ảnh hưởng đến sự hấp thu vitamin D. Tuy nhiên, bữa ăn hằng ngày thực sự mới chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vitamin D, phần còn lại là do da tổng hợp dưới tác động quang hóa của tia tử ngoại có trong ánh nắng mặt trời, biến tiền chất của vitamin D là 7 dehydrocholesterol ở lớp Malpighi của biểu bì chuyển thành tiền vitamin D3 (ergocalciferol) rồi thành vitamin D3 (cholecalciferol).
Quá trình này phụ thuộc vào nhiều nhân tố: độ tuổi, tiền vitamin D3, màu da, mùa, thời gian trong ngày, vùng địa lý... Ở đây, nồng độ vitamin D, canxi, phospho và PTH trong máu là những nhân tố điều hòa sinh tổng hợp vitamin D. Khi canxi trong máu giảm sẽ kích thích bài tiết PTH để huy động canxi từ xương vào máu làm tăng canxi trong máu và giảm bài tiết canxi qua thận, đồng thời làm giảm phosphat trong máu. Khi ánh nắng mặt trời quá nhiều hay tiếp xúc lâu với ánh nắng mặt trời, tiền vitamin D sẽ được chuyển thành dạng không có hoạt tính sinh học nên không xảy ra tình trạng sản xuất thừa vitamin D, và không bị ngộ độc vitamin D.
...và là một hormon đích thực
Vitamin D có đầy đủ tính chất của một hormon steroid cổ điển, do cơ quan nội tiết (ở thận) tổng hợp. Trong cơ thể, qua một quá trình biến đổi thành dạng có hoạt tính sinh học, vitamin D theo tuần hoàn máu đến các tế bào đích ở ruột và xương... Khi canxi, phospho trong máu giảm, PTH huyết thanh tăng sẽ kích thích tổng hợp vitamin D. Ngược lại, canxi máu tăng, phosphat được giữ lại ở thận, PTH huyết thanh và vitamin D giảm sẽ ức chế tổng hợp vitamin D.
Tại ruột: chức năng hormon chính của vitamin D là kích thích vận chuyển canxi và phospho từ ruột vào máu, tham gia tiêu hủy xương với sự hợp lực của PTH. Quá trình hấp thu canxi xảy ra suốt chiều dài của ruột nhưng chủ yếu ở tá tràng. Khi thiếu vitamin D, quá trình này bị ngưng trệ, cơ thể trong trạng thái cân bằng canxi âm, sự khoáng hóa xương bị rối loạn. Sự hấp thu phosphat (PO3_) ở ruột cũng chịu tác động của vitamin D, song so với canxi, hoạt động này là phụ vì sự hấp thu phosphat phần lớn là thụ động. Do vậy, khi bị thiếu vitamin D hay suy thận gây rối loạn chuyển hóa vitamin D, sự hấp thu canxi bị ngừng lại nhưng sự hấp thu P3O4 ở ruột vẫn bình thường.
Tại xương: hormon này có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bình thường của xương, là thành phần không thể thiếu được cho quá trình khoáng hóa xương. Các nghiên cứu trên động vật gợi ý rằng, vitamin D tác động đến sự khoáng hóa xương thông qua sự bình thường hóa canxi, phospho huyết thanh, bằng cách kích thích quá trình hấp thu tại ruột và tăng cường tiêu xương làm tăng canxi, P3O4 trong dịch ngoại bào. Vì thế, trong trường hợp ngộ độc vitamin D kéo dài sẽ xảy ra mất khoáng lan tỏa ở xương.
Như thế, vitamin D có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì cân bằng canxi nội môi , khi bị thiếu vitamin D sẽ dẫn đến rối loạn chuyển hóa muối khoáng và sự bài tiết PTH, thiếu hụt sự khoáng hóa trong xương. Hậu quả là, giảm trương lực cơ, đau cơ, trẻ em bị còi xương, còn người lớn bị loãng xương.
Một tiềm năng đáng được quan tâm
Tuy còn nhiều điều chưa rõ và phải tiếp tụ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status