Mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và CNXH trong tiến trình cách mạng Việt Nam - pdf 16

link tải miễn phí luận văn
Tiểu luận lịch sử Đảng
Đề bài:
Mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và CNXH trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Bài làm:
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, là ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách mạng Việt Nam. Đó là bài học được Đại hội lần thứ IV của Đảng rút ra từ thực tiễn phong phú của cách mạng nước ta, được các Đại hội lần thứ V, VI của Đảng tiếp tục khẳng định và đặc biệt được Đại hội lần thứ VII của Đảng phát triển với nội dung mới qua tổng kết kinh nghiệm 15 nǎm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước.

Bài học trên là sự phản ánh sinh động xu thế cách mạng của thời đại cũng như của nước ta, không những chỉ ra nguồn gốc thắng lợi của cách mạng Việt Nam trước đây, mà còn chỉ ra những yếu tố bảo đảm tính đúng đắn của đường lối và sự thắng lợi của cách mạng trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
NĂM VỮNG NGỌN CỜ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ CẢ NƯỚC TIẾN HÀNH CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN (1930 - 1954)

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Vấn đề dân tộc bao giờ cũng mang tính giai cấp. Mỗi giai cấp đều có quan điểm riêng về vấn đề dân tộc. Vào những thế kỷ XVI, XVII, XVIII, dân tộc gắn với giai cấp tư sản. Lúc đó, giai cấp tư sản giương cao ngọn cờ dân tộc chống chế độ phong kiến lỗi thời. Thắng lợi của phong trào dân tộc lúc đó là thắng lợi của chủ nghĩa dân tộc tư sản, thắng lợi của chủ nghĩa tư bản.

Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư sản chẳng những là kẻ bóc lột nhân dân trong nước, mà còn là kẻ thống trị, áp bức, bóc lột lớn nhất đối với nhiều dân tộc trên thế giới. Sau thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười, giai cấp công nhân, đại biểu cho cách sản xuất mới, cách sản xuất xã hội chủ nghĩa, là giai cấp duy nhất có khả nǎng giải quyết vấn đề dân tộc, kết hợp đúng đắn lợi ích giai cấp với lợi ích chân chính của dân tộc. Ngày nay, dân tộc gắn liền với giai cấp công nhân, với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nước ta cũng chịu sự tác động của xu thế chung đó.

Xác định đúng địa vị lịch sử của giai cấp công nhân là điều kiện cốt yếu để kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sớm điều đó. Trong bài báo Cuộc kháng Pháp, Người viết: Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới".

Vào những nǎm 20 của thế kỷ này, ở Việt Nam đã có cuộc đấu tranh giữa tổ chức tiền thân của Đảng với phong trào yêu nước mang tư tưởng quốc gia về đường lối cách mạng giải phóng dân tộc.

Nhận rõ nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu và các lãnh tụ nông dân, biết những hạn chế của những cuộc cách mạng dân chủ tư sản, hơn nữa với sức mạnh thuyết phục của chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối cách mạng kiểu mới, qua cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa quốc gia, phần lớn hội viên, đảng viên của Tâm Tâm Xã, Tân Việt đã hǎng hái tiếp thu tư tưởng cứu nước của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Vì vậy, phong trào công nhân nhanh chóng trở thành phong trào chính trị độc lập và phong trào yêu nước với nội dung mới đã phát triển mạnh mẽ vào nǎm 1929 dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2 nǎm 1930.

Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời là biểu hiện đầy đủ về sự thống nhất giữa xu hướng phát triển chung của thời đại và của riêng nước ta; đáp ứng đúng đòi hỏi của tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau, đồng thời là lực lượng duy nhất có khả nǎng lãnh đạo thực hiện thắng lợi tư tưởng đó.

Ngay sau khi ra đời, trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, tiếp đó là Luận cương chính trị , Đảng đã xác định đường lối cách mạng Việt Nam là phải trải qua hai giai đoạn: trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa, mục đích cuối cùng của Đảng là thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở nước ta.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì vậy đã giải quyết đúng đắn hàng loạt vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam và đã giành được những thắng lợi vĩ đại.

Với đường lối chiến lược đó, Đảng đã nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về tính liên tục và tính giai đoạn của cách mạng, khéo giải quyết mối quan hệ giữa hai giai đoạn cách mạng.

Ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, trong khi tập trung sức người, sức của để hoàn thành nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến, Đảng vẫn không quên tuyên truyền phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội và khi có điều kiện (lúc có vùng giải phóng ổn định), Đảng bắt tay ngay xây dựng một số cơ sở kinh tế, vừa phục vụ giai đoạn trước, vừa gây mầm mống thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa thuộc giai đoạn cách mạng sau. Phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội tuy là việc làm trong tương lai, nhưng tuyên truyền và quán triệt tư tưởng đó lại có tác dụng làm tǎng thêm sức mạnh cho hiện tại vì nó đáp ứng từng bước yêu cầu của quần chúng đông đảo là kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, mà trước hết là công nhân và nông dân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.


6rD7nxF53Am0Xct
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status