Sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ 1954-1975 - pdf 16

Download miễn phí Tiểu luận Sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ 1954-1975

I. Giai đoạn 1954-1960: Mở đầu sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước - Quá độ lên CNXH ở miền Bắc 3
1. Hoàn cảnh lịch sử của thòi kỳ 3
2. Chủ trương, lãnh đạo của Đảng chống lại âm mưu và hành động của Mỹ - Ngụy 4
II. Giai đoạn 1961-1965: Đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt ” của đế quốc Mỹ 7
1. Hoàn cảnh lịch sử của thời kì 7
2. Sự lãnh đạo của Đảng chống lại các âm mưu và hành động của Mỹ -Ngụy 8
III. Giai đoạn 1965-1968: Chuyển hướng xây dựng miền Bắc - Đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ 10
1. Âm mưu và hành động của Mỹ tiến hành “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam 10
2. Chủ trương, sự lãnh đạo của Đảng trước hành động của đế quốc Mỹ 11
IV. Giai đoạn 1969-1975: Nhân dân ta từng bước làm phá sản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” – Hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 13
1. Âm mưu và hành động của Mỹ 13
2. Chủ trương, sự lãnh đạo của Đảng làm phá sản chiến lược “VN hóa chiến tranh” – Hiệp định Paris năm 1973 14
3. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam 15
KẾT LUẬN 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO 19


LỜI MỞ ĐẦU

Thời kỳ 1954 -1975 là khoảng thời gian nhân dân ta vừa kết thúc 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, bước sang giai đoạn vừa kháng chiến chống Mỹ cứu nước vừa xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Đây là một thử thách đầy cam go đối với Đảng cộng sản Việt Nam – một chính Đảng còn non trẻ. Lần này đối mặt với ta là đế quốc Mỹ, tên thực dân hùng mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự thời bấy giờ. Tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng thời kỳ này giúp cho ta hiểu được đường lối lãnh đạo của Đảng ta là rất đúng đắn. Đảng Cộng sản Việt nam do Bác Hồ sáng lập và rèn luyện đã kết hợp tài tình Chủ nghĩa Mác Lê nin vào tình hình thực tiễn của Việt Nam. Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta chiến đấu anh dũng, biến cuộc chiến tưởng chừng không cân sức thành chiến thắng vang dội cả thế giới, làm chấn động địa cầu. Một nước Việt Nam tưởng chừng bé nhỏ, nhưng đã chiến thắng tên đế quốc sừng sỏ nhất trên thế giới, nơi mà mọi nước đều phải e dè.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài 21 năm có nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn là một thời kỳ đất nước ta có những chuyển biến lớn, nhằm chống lại âm mưu và hành động của Mỹ - Ngụy. Mà trong đó, những chủ trương, sách lược, những nhận định và hành động của Đảng là cực kỳ quan trọng.
Việc chia quãng thời gian 21 năm này ra làm nhiều thời kỳ cũng là một cách nghiên cứu, tìm hiểu rõ hơn sự lãnh đạo của Đảng trong những năm từ 1954-1975.
Các giai đoạn gồm có:
1954-1960: Mở đầu sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước - Quá độ lên CNXH ở miền Bắc.
1961-1965: Xây dựng miền Bắc - Đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt ” của đế quốc Mỹ.
1965-1968: Chuyển hướng xây dựng miền Bắc - Đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ.
1969-1975: Nhân dân ta từng bước làm phá sản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” – Hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


I. Giai đoạn 1954-1960: Mở đầu sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước - Quá độ lên CNXH ở miền Bắc
1. Hoàn cảnh lịch sử của thòi kỳ
Chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội năm 1954 đã dẫn đến thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương, công nhận chủ quyền độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Tại Việt Nam, vĩ tuyến 17 được chọn làm nơi ngăn cách, là giới tuyến quân sự tạm thời, hai bên đưa quân đội về hai vùng. Hiệp định cũng qui định cả nước sẽ tiến hành tổng tuyển cử tự do và tháng 7-1956. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền Bắc Nam. Trong những ngày đầu ở miền Bắc, đế quốc Mỹ cùng với bọn phản động thân Pháp đã tìm mọi cách để phá hoại, trì hoãn việc thi hành các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ. Các hành động trì hoãn việc ngừng bắn trên chiến trường, dụ dỗ cưỡng bức đồng bào miền Bắc di cư vào Nam, phá hoại cơ sở hạ tầng miền Bắc gây khó khăn cho ta tiếp quản vùng giải phóng… đã không làm lung lay chí quyết tâm, tinh thần chiến đấu của toàn Đảng, toàn quân và dân ta. Không thực hiện được ý đồ, chúng buộc phải thi hành các điều khoản của hiệp định. Ngày 22-5-1955, đội quân viễn chinh Pháp cuối cùng đã rút khỏi đảo Cát Bà, miền Bắc Việt nam đã hoàn toàn giải phóng, sạch bóng quân thù.
Ở miền Nam, Mỹ đã hất cẳng Pháp, xâm chiếm miền Nam. Âm mưu cơ bản của chúng là đè bẹp phong trào cách mạng của nhân dân ta, thôn tính miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới.
Trong thời kỳ đầu, mục tiêu của chúng là áp đặt chế độ thực dân mới ở miền Nam, tiêu diệt lực lượng cách mạng và gấp rút chuẩn bị tấn công miền Bắc. Những hành động của Mỹ thể hiện ở việc chúng xây dựng bộ máy ngụy quyền Ngô Đình Diệm; việc xây dựng quân đội ngụy với lực lượng hơn nửa triệu (có 20 vạn quân chính qui); tuyên truyền, mạo danh là “Cách mạng quốc gia”, nêu chiêu bài “Đả thực”; ráo riết thực hiện quốc sách “Tố cộng diệt cộng”, lập “Ấp chiến lược”… tất cả đều nhằm mục đích bắt bớ, trả thù tất cả những người yêu nước cũ và đàn áp, dập tắt phong trào cách mạng miền Nam.
Tình hình hai bên ta và địch lúc này có sự biến động lớn
- Ta: Có ưu thế về chính trị và quần chúng nhân dân đông đảo, nhưng không còn lực lượng vũ trang và không có chính quyền.
- Địch: Có đầy đủ sức mạnh về kinh tế, quân sự, có trong tay bộ máy Ngụy quyền đồ sộ.
Hoàn cảnh lúc này đặt trách nhiệm lịch sử lên vai Đảng cộng sản Việt Nam - đội quân tiên phong của nhân dân Việt Nam là tìm ra đáp số cho bài toán về “con đường giải phóng miền Nam và con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong thời kỳ Mỹ thay chân Pháp thống trị miền Nam”.
2. Chủ trương, lãnh đạo của Đảng chống lại âm mưu và hành động của Mỹ - Ngụy
Với tình hình diễn ra không có lợi cho việc tiếp tục tiến công, Đảng ta chủ trương duy trì phong trào cách mạng, giữ gìn lực lượng cách mạng ở Miền Nam, đấu tranh thích hợp nhằm hạn chế tổn thất. Hình thức đấu tranh bấy giờ là: đấu tranh quân sự chủ yếu, các cuộc đấu tranh chính trị, cuộc biểu tình, bãi công rộng lớn, huy động hàng triệu lượt người tham gia, đòi chúng phải thi hành việc ngừng bắn, tổ chức Hiệp thương tổng tuyển cử với miền Bắc, đòi thực hiện các quyền dân sinh, dân chủ, chống mọi hoạt động khủng bố, đàn áp người kháng chiến cũ. Nhận định này của Đảng là rất sáng suốt, bởi trong thời kỳ đầu, việc nghiêm chỉnh thực hiện điều kiện đã ký, ta sẽ có cơ sở hợp lý đòi Mỹ – Ngụy thi hành những điều khoản trong hiệp định. Việc hợp thức hóa các hình thức đấu tranh vũ trang thành đấu tranh chính trị không những tranh thủ được sự đồng tình của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế mà còn buộc chúng không dám vi phạm hiệp định một cách trắng trợn như trước kia.
Bên cạnh đó, Đảng nhận định rằng sau quãng thời gian trường kỳ kháng chiến chống Pháp mà mới đây là cuộc chiến khốc liệt ở Điện Biên Phủ, quân đội, lực lượng cách mạng quần chúng nhân dân ta cũng bị tổn thất rất nhiều. Trong khi đó đối phương lại là một đế quốc hùng mạnh, với tiềm lực kinh tế và quân sự vượt trội, do đó ta cần có thời gian để khôi phục và phát triển. Rõ ràng đây là nhận định cực kỳ quan trọng.
Báo cáo của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (khóa II) diễn ra từ 15 đến 17-7-1954 tại Việt Bắc chỉ ra rằng:’’ Sau thắng lợi ở Điện Biên Phủ, thế ta ngày càng mạnh, thế địch ngày càng yếu, nhưng thế mạnh và thế yếu ấy là tương đối. Đế quốc Mỹ âm mưu kéo dài chiến tranh Đông Dương, phá hoại hiệp định Giơnevơ, tìm cách hất cẳng Pháp để độc chiếm Việt Nam, Campuchia và Lào, biến ba nước ấy thành thuộc địa của Mỹ”. Do đó, báo cáo cũng nhận định: “Tranh lấy hòa bình không phải là chuyện dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ và phức tạp”.
Cùng với báo cáo của Hội nghị, Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương cũng đưa ra những Nghị quyết cụ thể, những bản chỉ thị cho các Đảng bộ miền Nam, miền Bắc. Nghị quyết nêu rõ: Đế quốc Mỹ và tay sai mưu tính phá hoại hiệp định Giơnevơ, nhằm chia cắt lâu dài VN. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam phải chuyển từ đấu tranh vũ tranh sang đấu tranh chính trị. Chỉ thị cũng vạch ra các nhiệm vụ cụ thể trước mắt cho cách mạng miền Nam và dự báo khả năng không thuận lợi cho cách mạng miền Nam, chiến tranh có thể trở lại, việc chia cắt có thể trường kỳ...
Nhờ những nhận định, chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng, cùng với tinh thần kiên định cách mạng của cán bộ, Đảng viên và nhân dân miền Nam nên cách mạng không bị tiêu diệt, trái lại đã trụ vững, không những thế mà sau một thời gian ngắn đã phục hồi và phát triển không ngừng chuẩn bị cho thời kỳ bão táp cách mạng sắp sửa diễn ra.
Vào cuối năm 1957, đầu năm 1958, kẻ thù bị thất bại trong chính sách thực dân mới cổ điển là thống trị mà không cần dùng đến chiến tranh. Sự thất bại đó thể hiện ở việc Mỹ-Diệm chuyển sang chính sách phát xít hóa nhằm cứu vãn sự phá sản của kế hoạch Aixenhao. Chúng tiến hành các cuộc càn quét, khủng bố đến điên cuồng, lê máy chém đi khắp nơi trên miền Nam. Đặc biệt là việc thi hành luật phát xít 10-59, loại hình tòa án quân sự đặc biệt có thể đưa thẳng người bị bắt ra xét xử và bắn tại chỗ. Theo con số ước tính, đến năm 1959 ở miền Nam có đến 466.000 người bị bắt, 400.000 người bị tù đày, 68.000 bị giết hại (Con số lấy từ sách Lịch sử Đảng - NXB Chính trị quốc gia-2001). Cách mạng miền Nam một lần nữa đứng trước thử thách mới hết sức nghiêm trọng.
Trong tình hình nguy cấp này, Đảng ta nhận định rằng: chính sách phát xít của Mỹ-Diệm đã gây nhiều khó khăn cho cách mạng miền Nam, nhưng cũng thể hiện thế yếu của kẻ thù, mâu thuẫn giữa Mỹ-Diệm với nhân dân miền Nam ngày càng bị khoét sâu. Do đó chủ trương mới của Đảng ta, mục tiêu trước mắt là: Kiên trì phát động quần chúng nhân dân đấu tranh chính trị, tiếp tục giữ gìn lực lượng. đi đôi với mục tiêu trước mắt là việc , củng cố, xây dựng các lực lượng vũ trang, chuẩn bị đối đầu với những thử thách mới.
Thi hành chủ trương đó, phong trào cách mạng diễn ra rất mạnh mẽ, hàng triệu lượt người tham gia các hình thức đấu tranh chính trị, đi đôi với đấu tranh vũ trang. Sự kết hợp hai lực lượng đấu tranh này tạo nên sức mạnh mới trong cuộc chiến tranh một mất một còn của nhân dân miền Nam đối với Mỹ-Diệm.
Trước khí thế mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc, Đảng ta nhận định rằng: chúng ta không thể chờ đợi được nữa, phải có quyết định dứt khoát - đánh hay không đánh?. Tháng 1-1959, hội nghị lần thứ 15 BCH Trung ương Đảng (khóa II) đã thông qua Nghị quyết về đường lối cách mạng miền Nam. Nghị quyết này được đưa ra sau quãng thời gian đắn đo, suy nghĩ rất lâu dài của Bộ chính trị, vì nó là quyết định liên quan đến cả một vận mệnh của một dân tộc, cần sự nhìn nhận chính xác về tình hình, về thời cuộc lúc bấy giờ. Tư tưởng chỉ đạo cực kì quan trọng để chuyển cách mạng miền Nam sang bước chuyển biến mới có tính nhảy vọt được đề ra trong Nghị quyết mang tính lịch sử này là: “Nhân dân miền Nam phải dùng con đường bạo lực cách mạng để tự giải phóng mình, ngoài ra, không còn con đường nào khác”.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết 15, cách mạng miền Nam đã có sự nhảy vọt. Các cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ ở từng địa phương đã phát triển thành cao trào “ Đồng Khởi” trong toàn vùng, từ Tây Nguyên đến miền Đông, Tây Nam Bộ và

Sq65YHmWQOek0lo
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status