Phân tích những đặc điểm kinh tế dẫn tới sự phát triển thần kì của Nhật Bản (1952-1973) - pdf 16

Download miễn phí Tiểu luận Phân tích những đặc điểm kinh tế dẫn tới sự phát triển thần kì của Nhật Bản (1952-1973)



Ở một nước nghèo tài nguyên thiên nhiên như NB, nếu không nhập khẩu được nhiên liệu và nguyên liệu cho công nghiệp thì đừng có nói đến khả năng phát triển kinh tế. Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 đã làm cho người NB không bao giờ quên. Tình hình kinh tế thế giới ổn định, có tầm quan trọng to lớn đến việc ổn định nhập khẩu của NB. Khi tình hình trung đông rối loạn, giá dầu thô tăng lên và nguồn cung cấp dầu thô cho NB lâm vào tình trạng không ổn định thì liền sau đó lạm phát nổ ra ở NB, sản xuất công nghiệp sa sút nghiêm trọng và đời sống của nhân dân cũng lâm vào tình trạng không ổn định. Hoạt động xuất khẩu cũng như vậy. Kinh tế NB phát triển được là nhờ xuất khẩu. Nếu NB mất thị trường ở nước ngoài, tiêu thụ chỉ trông chờ ở các cửa hàng nội địa thì sản xuất hàng loạt không thể tiếp tục được và công nghiệp cũng mất khả năng phát triển.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Hunsan)…
+/ Loại 3: các nhà doanh nghiệp nổi lên sâu chiến tranh. Đại diện là Ohibuka, A Kio morita (Sony), Shoi chiro honda(hãng nghiên cứu kỹ thuật Honda)…
Đúng là thời thế khó khăn đã tạo ra anh hùng. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các xí nghiệp do các tập đoàn tài phiệt bị giải thể và bầu không khí tự do sau chiến tranh đã là mảnh đất tốt để cho ra đời các nhà doanh nghiệp mới. Điều đầu tiên mà các nhà doanh nghiệp đó đã làm là mạnh dạn đổi mới kỹ thuật. Nhiều kỹ thuật đã du nhập từ Mỹ vào, nhưng đưa vào NB phải cải tiến đê sản xuất ra những mặt hàng mới và phải tạo ra được năng suất cao hơn. Tiếp đó lại mạnh dạn đầu tư thiết bị. Bản thân phương pháp đó là một sự cải cách.
Về việc đưa ra những mặt hàng mới, công ty Toyo Rayon đưa ra mặt hàng Nilon có ý nghĩa bước ngoặt trong thời kỳ sau chiến tranh. Năm 1951 công ty Toyo Rayon nhân việc có sự tranh chấp về vấn đề xâm phạm bí quyết kỹ thuật với công ty Duybon của Mỹ, đã quyết định du nhập kỹ thuật sản xuất Nilon 66, có trả một khoản tiền lớn về sử dụng bí quyết kỹ thuật. Quyết định táo bạo đó đã trở thành nguồn gốc cho sự phát triển của nghành tơ sợi tổng hợp ở NB trong thời kỳ sau đó. Năm 1953, hãng Sony đã quyết định mua kỹ thuật bán dẫn (Transis tor) của hãng westen Electronic và đã thành công trong việc sản xuất đài bán dẫn (Tran sistor Radio ). Công ty sắt thép Kawasaki, bất chấp sự phản đối của ngân hàng NB, đã xây dựng một nhà máy luyện thép liên hoàn tại tỉnh Chiba và đặt nền móng cho hiện đại hoá ngành luyện kim của NB ngày nay.
Trên đây là những ví dụ tiêu biểu về cải tiến kỹ thuật ở NB trong thời kỳ đầu sau chiến tranh thế giới lần II. Nhưng trong nguồn gốc sức mạnh chủ yếu để NB có thể thích ứng được với môi ttrường kinh tế thay đổi trong khoảng 40 năm sau chiến tranh và thúc đẩy NB thay đổi kịp thời lại nằm trong hoạt động của các xí nghiệp có tinh thần dám đi tiên phong.
IV/ Lực lượng lao động ưu tú:
Về mặt lực lượng lao động sau chiến tranh, NB có một lợi thế lớn là có một nguồn lao động dồi dào. Sau chiến tranh một lực lượng lớn người rút ra từ các thuộc địa của NB về giải ngũ ra từ quân đội. Nguồn cung cấp lao động lúc đó là quá thừa và họ sẵn sàng làm việc với đồng lương rẻ mạt. Nói theo thuật ngữ kinh tế học của Mac thì lao động tạo ra giá trị thặng dư và có khả năng tích luỹ tư bản. Dù đồng lương thấp đến mức nào, nhưng vì chất lượng lao động tồi, năng suất lao động thấp thì cũng không phát sinh giá trị thặng dư. Nhưng phần lớn lao động ở NB có trình độ giáo dục cao và được đào tạo về kỹ năng lao động. Nhưng vì bại trận họ mất việc làm, nên họ buộc phải lao động với đồng lương rẻ mạt, tại NB có nhiều công nhân cần cù, trình độ giáo dục cao và đã được đào tạo kỹ thuật. ảnh hưởng của chủ nghĩa Mac đã phát triển rất nhanh chóng nhưng chủ yếu ở trong một bộ phận trí thức và công nhân ở các thành phố, còn phần lớn công nhân vẫn còn tiếp tục theo quan niệm có từ trước chiến tranh là trung thành vơí các xí nghiệp
Từ năm 1947 đến năm 1949 là những năm sau chiến tranh, số trẻ sơ sinh tăng vọt. Trong 3 năm đó, tỷ lệ sinh rất cao đạt 3,4% năm. Người ta lo rằng cứ đà đó thì sẽ đẫn đến tình trạng quá thừa lao động và làm trầm trọng thêm vấn đề thất nghiệp. Tuy vậy lớp trẻ sinh ra trong thời kỳ này đạt đến tuổi lao động đúng vào thời kỳ kinh tế NB tăng trưởng với tốc độ cao, nhu cầu lao động tăng mạnh.
Sau chiến tranh, tỷ lệ thanh thiếu niên đi học ngày càng cao, trình độ học vấn cao đã đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cách mạng kỹ thuật.
V/ Sự hợp tác chủ thợ:
Giới báo chí nước ngoài đặc biệt chú ý đến một vấn đề ở NB là sự hợp tác chủ thợ nhằm góp phần phát triển xí nghiệp. Điều này hơn hẳn các nước
công nghiệp trên tiên tiến âu Mỹ. Bài báo: “ NB đất nước đáng kinh ngạc 1968” giới thiệu trên tờ LonDon Econnamic được coi là rất nổi tiếng trong việc sớm giới thiệu với thế giới về sức mạnh kinh tế của NB. Bài này cho phép tổng biên tập tờ Econamic Noth Markre viết nhân chuyến thăm NB đẵ giới thiệu về nhà máy sản suất đồ điện Matsushita. Mỗi buổi sáng trước khi làm việc cả ban giám đốc và công nhân đều hát trong trong khí thế hết sức hào hùng bài hát có nội dung như sau: chúng ta đồng sức, đồng lòng, mang hết sức mình xây dựng đất nước NB mới. Chúng ta làm việc quên mình, hàng hoá không ngừng tuôn dào dạt, toả đi khắc muôn phương, muôn nơi trên thế giới đến với mọi người. (Đồng tâm nhất trí phát triển sản xuất -điện cơ Matsusita)
Nếu như ở nhà máy Ford, thì chẳng bao giờ có chuyện công nhân hát những bài hát như thế này trước khi làm việc. Người NB rất vui vẻ với không khí tập thể đặc biệt mang lại cho họ thành công. Dù không phải tất cả các xí nghiệp ở NB đều có được không khí như vậy nhưng rõ ràng ở đây thể một đặc thù của NB. Vì sao ở các nước khác không thể xây dựng được mối quan hệ cộng đồng như vậy.
Có ý kiến cho rằng, nguyên nhân của nó là ở đặc tính xã hội như một cơ sở mà trong đó người NB dễ dàng hoà mình vào với cuộc sống tập thể. Nhưng cũng có người lại cho rằng đó là do đạo đức phong kiến còn rơi rớt lại. Cũng có ý kiến cho rằng đó là do đặc tính có tính chất chế độ ở NB như chế độ công đoàn riêng trong từng xí nghiệp, chế độ tuyển dụng suốt đời. Vì trong một chế độ như vậy, sự thành công của xí nghiệp dễ gắn liền trực tiếp với lợi ích của công nhân.
Nhưng lại có người cho rằng ý thức tập thể và chế độ như vậy ở nước nào mà trả có chứ đâu phải đặc tính riêng của NB. Nhưng một điểm mà hầu như các nhà kinh tế nước ngoài đến thăm NB đều ngạc nhiên như nhau là các nhân viên công nhân đều tích cực đề suất sáng kiến để nâng cao năng suất lao động. Có lẽ đó là sự kết hợp của những lí do nêu trên và sự nhất trí giữa người lao động và lãnh đạo xí nghiệp (chủ và thợ). Sự nhất trí như vậy là hiếm có trên thế giới. Các nhà kinh doanh luôn cố gắng để duy trì những đặc điểm nói trên. Có ý kiến cho rằng, tới đây tình hình thay đổi và lực lượng lao động sẽ tăng lên, chế độ tuyển dụng lao động suốt đời sẽ tan rã và sự nhất trí giữa chủ và thợ cũng sẽ mai một đi. Nhưng theo tui thì nếu nói trong tương lai xa xôi thì có thể khác nhưng trước mắt đặc điểm đó không thay đổi. Bởi vì nó đã ăn sâu vào quan hệ xã hội, là lợi ích của cả hai phía.
VI/ Lãnh đạo tài ba.
Số người nước ngoài nhiều hơn số người ở NB coi sự tài ba của người lãnh đạo (quan chức) ở NB là nguyên nhân quan trọng trong phát triển kinh tế. Đội ngũ lãnh đạo có năng lực – cụ thể là các quan chức hành chính trong chính phủ NB hiểu biết các vấn đề kinh tế sâu sắc hơn các quan chức của các nước phương tây. Những gì có được ở NB đều được hình thành thông qua sự hợp tác chặt chẽ giữa chính phủ và tư nhân.
Nhìn chung các nhà kinh tế NB không đồng tình lắm đối với các quan chức của chính phủ nước mình. Vai trò của các quan chức đã ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status