Tính kế thừa của phủ định biện chứng và vận dung, xem xét công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam - pdf 16

Download miễn phí Tiểu luận Tính kế thừa của phủ định biện chứng và vận dung, xem xét công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam



MỤC LỤC
STT Nội dung Trang
Mở đầu. 1
1. Phủ định biện chứng và tính kế thừa.
1.1. Phủ định biện chứng. 3
1.2. Tính kế thừa của phủ định biện chứng 3
2. Vận dụng và phát huy tính kế thừa của phủ định biện chứng trong đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
2.1. Công cuộc đổi mới kinh tế ở việt Nam 4
2.1.1.Bối cảnh lịch sử. 4
2.1.2. Yêu cầu của đổi mới kinh tế 5
2.2. Tính kế thừa của phủ định biện chứng với công cuộc đổi mới kinh tế ở việt nam
2.2.1. Kế thừa những yếu tố tích cực, hợp lí của cơ
chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung. 5
2.2.2.Kế thừa, phát huy các giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống trong phát triển kinh tế mới 7
2.2.3. Kế thừa những yếu tố tiến bộ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa 11
Kết luận 17
Tài liệu tham khảo 18
 
 
 
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ng lên đáng kể Như vậy, làn sóng cải cách kinh tế rộng khắp ở các nước trên thế giới từ cuối thập kỷ 70 đã tạo nên áp lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Trong bối cảnh phát triển sôi động của kinh tế thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực, Việt Nam không thể đứng ngoài tiến trình đó.
2.1.2: Yêu cầu của đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
Bảo đảm sự thống nhất quan hệ về sở hữu với quan hệ về tổ chức quản lý và quan hệ về phân phối trong xây dựng quan hệ sản xuất mới trong quá trình đổi mới kinh tế. Việc tìm tòi, thử nghiệm,xây dựng chế độ công hữu diễn ra từng bước gắn liền với việc xoá bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu,bao cấp. Vận dụng sáng tạo nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là thực hiện phân phối chủ yêu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khácvào sản xuất, kinh doanh thông qua phúc lợi xã hội.
Tạo những hình thức kinh tế bảo đảm sự gắn bó sở hữu xã hội với sở hữu cá nhân trong chế độ công hữu.Thực tiễn đổi mới cho thấy, trong chủ nghĩa xã hội, sở hữu cá nhân về tư liệu sản xuất không chỉ tồn tại trong thành phần kinh tế cá thể mà cồn trong kinh tế công hữu.Đó cũng là tinh thần của C.Mac khi ông cho rằng: sở hữu tư nhân mà biểu hiện cuối cùng và hoàn bị nhất là sở hữu tư sản, là sự phủ định sở hữu cá nhân của người lao động. Vì vậy, chế độ công hữu khi phủ diịnh tư sản nó không khôi phục sở hữu tư nhân mà lại khôi phục sở hữu cá nhân người lao động.
Xây dựng chế độ công hữu từng bước và có bước đi thích hợp. Ph. Ănghen đã khẳng định, không thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức như thể không thể làm cho lực lượng sản xuất phát triển ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu.
2.2: Tính kế thừa của phủ định biện chứng với công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
2.2.1: Kế thừa những yếu tố tích cực, hợp lý của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Trước thời kỳ đổi mới, suốt nhiều thập kỷ,Việt Nam cũng như các nước
xã hội chủ nghĩa khác, thực hiện công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo mô hình chủ nghĩa xã hội hành chính bao cấp dựa trên quan niệm lúc bấy giờ là chế độ sở hữu toàn dân và tập thể về tư liệu sản xuất và cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, viẹc áp dụng mô hình này đã thực sự mang lại những kết quả to lớn không thể phủ nhận. Chúng ta đã huy động mọi lực lượng, tập trung vừa đánh bại cuộc chiến tranh rất ác liệt do đế quốc Mỹ gây ra, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,tạo cơ sở vật chất-kỹ thuật quan trọng cho chủ nghĩa xã hội.
Thực tế mô hình chủ nghĩa xã hội này,nhất là thời kỳ 10 năm sau ngày giải phóng miền Nam (1976 – 1986) đã chứng tỏ những điều không phù hợp với quy luật đi lên chủ nghĩa xã hội. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung và sự thừa nhận chỉ có hai thành phần kinh tế ( quốc doanh, tập thể ) đã kìm hãm sức sản xuất, làm cho nhiều năng lực của xã hội không được phát huy,các vấn đề mấu chốt của đời sông nhân dân không được giải quyết.Vì thế chúng ta không tạo ra những thay đổi ;không tạo ra được sự bứt phá trong phương hướng phát triển bền vững; không tạo ra nguồn sinh lực mới cho xã hội. Tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm trọng,nhân dân kém nhiệt tình lao động và mất đi những động lực sáng tạo. Tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực quý giá khác chậm được khai thác, sản xuất và đời sống ngày càng suy giảm …dẫn đến tình trạng trì trệ trong xã hội.
Thực tế cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, đất nước đã lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội nghiêm trọng. Tuy vậy, xét cho cùng, khi nước ta bắt đầu bắt tay vào đổi mới, nền kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần gắn với thị trường, dưới sự quản lý của nhà nước, theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa thì việc kế thừa và phát huy những yếu tố tích cực hợp lý của cơ chế cũ là rất cần thiết và không thể phủ nhận.Chúng ta đổi mới nhưng không phủ định sạch trơn.
Trong sản xuất nông nghiệp, Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động. Đây là một hình thức quản lý tiến bộ, thích hợp với điều kiện lao động của ta – chủ yếu cồn là thủ công và là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chỉ thị 100 có tác dụng gắn chặt trách nhiệm và lợi ích của người lao động với sản phẩm cuối cùng. Các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất đã phát huy tốt hơn khả năng lao động, tạo ra được khí thế lao động sôi nổi, tận dụng được điều kiện về vốn, vật tư, chú trọngcác biện pháp thâm canh,tăng năng suất,tăng thu nhập, giải quyết tốt việc kết hợp 3 lợi ích ( lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân )cho nên chỉ thị đó nói chung đã là một động lực thúc đẩy đối với việc phát triển sản xuất nông nghiệp. Song, do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp cộng với sự yếu kém về tổ chức, quản lý của hợp tác xã cũng ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện khoán sản phẩm.
Vì thế, giai đoạn đổi mới kinh tế trong sản xuất nông nghiệp kế thừa và hoàn thiện dần chế độ khoán sản phẩm. Kinh tế hợp tác vẫn được giữ lại nhưng hợp tác xã chỉ làm một số khâu dịch vụ đầu vào hay tiêu thụ sản phẩm cho xã viên.Chuyển các hợp tác xã còn hoạt động kinh doanh thành các hợp tác xã cổ phần, hoạt động theo Luật Hợp tác xã (ban hành 1997).
Về đổi mới các công cụ và chính sách quản lý kinh tế kế hoạch hoá trong cơ chế cũ được coi là công cụ chủ yếu nhất để quản lý kinh tế. Thông qua hệ thống các cơ quan kế hoạch nhà nước từ Trung ương đến địa phương để xây dựng kế hoạch giao chỉ tiêu kế hoạch cho các cơ sở kinh tế ,điều hành, theo dõi thực hiện và xét duyệt việc hoàn thành kế hoạch mà nhà nước có thể “chỉ huy” được nền kinh tế. Việc thực hiện cơ chế đó đến đầu thập kỷ 80 đã trở thành lực cản của sự phát triển kinh tế.
Công tác kế hoạch hoá trong thời kỳ đổi mới được cải tiến dần theo hương chuyển từ kế hoạch hoá tập trung mang tính chất pháp lệnh trực tiếp sang kế hoạch hoá gián tiếp. Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển với các mục tiêu lớn, các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu và điều tiết kinh tế bằng các chính sách, các công cụ kinh tế vĩ mô để dẫn nền kinh tế theo định hướng đề ra cho từng giai đoạn…
2.2.2: Kế thừa, phát huy các giá trị đạo đức,văn hoá truyền thống trong phát triển kinh tế mới.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status