Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dưới tác động của ba yếu tố quan trọng: xã hội, quê hương, và thời đại - pdf 16

Download miễn phí Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dưới tác động của ba yếu tố quan trọng: xã hội, quê hương, và thời đại



Nguyễn Tất Thành đã tận mắt chứng kiến một cảnh ngộ đối lập giữa: một bên là đồng đội mình, nhân dân mình bị áp bức bóc lột, cuộc sống nghèo khổ với phía bên kia là những tên thực dân độc ác, phong kiến địa chủ dã man, cuộc sống xa hoa đồi trụy.
Những bài học thất bại của những nhà yêu nước tiền bối, đương thời cũng có tác động không nhỏ tới Nguyễn Tất Thành.
Chính những điều này đã biến thành lòng căm thù, biến thành nhân sinh quan yêu nước cách mạng của Người ngay từ đầu và theo suốt quá trình hoạt động cách mạng. Bởi vì, ở Người tư tưởng yêu nước, thương dân, cảm thông với mọi nỗi đau khổ của nhân dân, của đồng bào luôn luôn có sự gắn bó chặt chẽ không thể tách rời, Chính điều đó đã thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Bằng trực giác, Nguyễn Tất Thành nhận thấy rằng muốn cứu nước, giải phóng dân tộc thì không thể đi theo con đường các bậc tiền bối đã đi, mà cân phải tìm ra một con đường mới. Và, Người đã quyết định đi Pháp và từ Pháp đến các nước khác xem họ làm như thế nào, học tập rồi trở về giúp đồng bào mình.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

A. LỜI MỞ ĐẦU:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách quan và là sự giải đáp những nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX tới nay. Đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước truyền thống văn hóa, nhân nghĩa và thực tiễn cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại, được nâng lên tầm cao mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dưới tác động của ba yếu tố quan trọng: xã hội, quê hương, và thời đại.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX:
1. Trong suốt thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội phong kiến bảo thủ và phản động:
1.1. Yếu tố bảo thủ của triều đình phong kiến Việt Nam:
Trong suốt thế kỷ XIX, giai cấp phong kiến vẫn nắm giữ quyền lực nhà nước và duy trì thực hiện những chính sách mà mình đã đặt ra trước đó. Chính yếu tố này đã kìm hãm sự phát triển và hội nhập của đất nước với bên ngoài. Triều đình phong kiến vẫn thi hành chính sách áp bức bóc lột ở bên trong và bế quan tỏa cảng đối với bên ngoài, không tạo ra cơ hội để dân tộc tiếp xúc với thế giới văn minh. Không chỉ vậy, giai cấp cầm quyền còn tiếp tục coi nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trì trệ là nền kinh tế chủ yếu, về văn hóa thì nặng nề về tư tưởng Nho giáo từ vua cho đến quan lại và dẫn đến ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống của nhân dân; về cơ cấu xã hội: thì vẫn giữ nguyên cơ cấu xã hội cũ, truyền thống: nhà - làng - nước; không mở trường đào tạo khoa học kỹ thuật, kinh tế và cự tuyệt mọi đề án cải cách, canh tân của nhiều nhà tư tưởng đương thời. Trong lúc bấy giờ, xã hội Việt Nam có những hệ tư tưởng đổi mới:
Có một số nhà tư tưởng tiêu biểu: Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch…(“Họ chính là những người đã trồng cái mầm khai hóa trước tiên”), đã thực hiện một bước chuyển tư tưởng chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn. Từ “canh tân đổi mới nhà nước” đến “ canh tân đổi mới tác chiến”, nhưng đều bị triều Nguyễn bác bỏ hết, cự tuyệt mọi đề án cải cách, canh tân của nhiều nhà tư tưởng đương thời.
Tất cả những yếu tố trên đã thể hiện được sự “bảo thủ” của xã hội phong kiến Việt Nam trong suốt thế kỷ XIX. Chính vì lý do này mà nhà Nguyễn đã không thể chú trọng thực hiện việc chuẩn bi tiềm lực vật chất, tinh thần, thế mạnh của dân tộc để có đủ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, chống lại kẻ thù bên ngoài.
1.2. Yếu tố phản động của triều đình phong kiến Việt Nam:
Triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ, trong thì sợ nhân dân, ngoài thì bạc nhược trước kẻ thù.
Lúc đầu thì“chủ chiến” có chống cự yếu ớt, nhưng sau khi thực dân Pháp bắn đại bác vào Đà Nẵng thì lại “chủ hòa”, từng bước nhân nhượng, cầu hòa; cuối cùng là cam chịu “đầu hàng”, đồng ý thương lượng chia cắt một số tỉnh hiến dâng cho giặc để giữ lấy ngai vàng và lợi ích riêng của hoàng tộc.
Tất cả những hành động này của nhà Nguyễn đã làm đảo lộn hoàn toàn lịch sử truyền thống anh hùng bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta từu ngàn xưa. Như vậy, việc mất nước trong giai đoạn này chính là trách nhiệm của nhà Nguyễn. Từ đó, nhà Nguyễn đã tỏ ra đớn hèn, bạc nhược khiến đất nước Việt Nam từ một nước hòa bình độc lập chủ quyền biến thành một nước nô lệ. Dẫn chứng bằng việc: khi đó, triều Nguyễn đã giải thích rằng “đầu hàng” này là “định mệnh của dân tộc”. Giải thích đó là không phù hợp với hiện thực bởi vì trong lúc bấy giờ, triều Nguyễn đã không chuẩn bị tiềm lực vật chất, tinh thần, thế mạnh của dân tộc để có đủ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, chống lại kẻ thù bên ngoài. Việc giải thích này là hoàn toàn trái ngược với quan điểm thường giáo “ không có dân tộc nào là định mệnh nô lệ mà chỉ có định mệnh giàu nghèo”
2. Trong giai đoạn từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược xã hội Việt Nam:
Chúng ta cần phân tích được hai tư tưởng:
2.1. Giai cấp, đời sống xã hội:
Sau khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta, triều đình phong kiến do đớn hèn, bạc nhược nên đã từng bước nhượng bộ, đi từ quan điểm chủ chiến đến quan điểm chủ hòa và đi đến việc “cam tâm đầu hàng”, cam chịu làm nô lệ cho kẻ thù. Ta vẫn có thể nhận thấy được triều Nguyễn là có “tinh thần yêu nước”, tuy nhiên “ Đây lại là những hành động thể hiện chủ chủ nghĩa yêu nước không chân chính”. Bởi vì giai cấp thống trị xã hội đã bị lợi ích giai cấp thống trị bán rẻ lợi ích đất nước, chúng “cam chịu đầu hàng” để mưu giữ lấy ngai vàng và lợi ích riêng của chúng. Qua đây, ta có thể nhận thấy được sự đớn hèn, bạc nhược của cả giai cấp thống trị lúc bấy giờ.
2.2. Quần chúng nhân dân lao động:
Những phong trào tự vũ trang kháng chiến chống thực dân Pháp của quần chúng nhân dân lần lượt xuất hiện và lan rộng khắp cả nước. Đã ghi lại những trang sử vẻ vang của dân tộc, như ở Nam Bộ có Trương Định, Nguyễn Trung Trực,…; ở Trung Bộ có Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng,…; Ở Bắc Bộ có Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích,…
Tuy nhiên, những phong trào này, cuối cùng cũng đều đi đến thất bại. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những thất bại này là vì những phong trào này vẫn chưa có đường lối kháng chiến rõ ràng, lãnh đạo các cuộc kháng chiến là các sĩ phu mang nặng ý thức hệ phong kiến, nặng tư tưởng tôn quân, chưa thực sự tin vào lực lượng của nhân dân. Như vậy, hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ rõ được sự bất lực trước nhiệm vụ lịch sử hiện tại của đất nước đặt ra. Mặc dù vậy, những phong trào kháng chiến vũ trang này cũng đã viết lên những trang sử vẻ vang, truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc.
Ở đây, ta có thể nhận thấy được rằng: “chủ nghĩa yêu nước là chân chính” bởi vì họ đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vì bảo vệ quê hương, đất nước mình.
3. Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa và xã hội Việt Nam bắt đầu có sự phân hóa:
3.1. Giai cấp công nhân, giai cấp tư sản xuất hiện và sự ảnh hưởng quan trọng nhất của yếu tố bên ngoài.
Đến đầu thế kỷ XX, đã có sự xuất hiện của giai cấp công nhân, giai cấp tư sản. Bên cạnh đó “ Tân thư ”, “Tân văn”..., cùng với các cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu từ Trung Quốc…đã ảnh hưởng trực tiếp vào Việt Nam. “ Tân thư” được hiểu đó là những yếu tố bên ngoài du nhập vào Việt Nam thông qua con đường Hán Việt nên có thể gọi là “Tân văn”. Nếu như sự ra đời của giai cấp công nhân và giai cấp tư sản được coi là yếu tố thực tiễn thì “ Tân thư” được coi là yếu tố lý luận trong sự xuất hiện yếu tố mới mẻ nhất của xã hội Việt Nam ở đầu thế kỷ XX.
3.2. Sự tác động của yếu tố phân hóa giai cấp và ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài vào Việt Nam:
Dưới tác đ
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status