Chất triết học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm - pdf 16

Download miễn phí Tiểu luận Chất triết học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm



Gần trọn cuộc đời quy ẩn, sống với nhân dân lao động, triết lí thiên mệnh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm có nhiều cách nói giống người bình dân. Trước hết đó là quan niệm vũ trụ, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng ông trời sinh ra con người, cho sao được vậy không nên tranh giành cái danh ở triều đình, giành nhau cái lợi ở chợ búa. Bởi “Trời nẻo có sinh thì có dưỡng / Dể hầu nằm giữa mất phần chăng”(Thơ Nôm, bài 136), “khó khăn dầu ở mệnh trời”, “được thua phú quý dầu thiên mệnh / Chen lấn làm chi cho nhọc nhằn”.
Triết lí thiên mệnh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm còn được thể hiện ở quan niệm tuần hoàn về vũ trụ. Đó là sự chuyển hóa, biến đổi giữa các mặt đối lập, biến đổi liên tục của vật chất, của sự vật. Khi sự vật đạt đến đỉnh điểm của trạng thái này thì nó sẽ chuyển thành trạng thái đối lập:
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Lê – Trịnh – Nguyễn. Cuộc chiến tranh nội bộ kéo dài khiến đất nước rơi vào cảnh loạn li. Vua chúa chỉ lo ăn chơi xa hoa, trụy lạc, quan lại thì tranh đua quyền lực, ra sức bóc lột nhân dân để phục vụ cho những nhu cầu của chúng làm cho đời sống nhân dân dưới thời kì này vô cùng cực khổ. 1.2 Nguyễn Bỉnh Khiêm – một cuộc đời thanh cao và mang nặng nỗi “tiên ưu”. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) húy là Văn Đạt, tên chữ là Hanh Phủ, hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Sinh trưởng trong một gia đình vọng tộc (cháu ngoại quan thượng thư Nhữ Văn Lan) có học vấn, cả 2 thân mẫu đều những người có văn tài học hạnh nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã hấp thụ truyền thống gia giáo kỉ cương. Nhất là phụ mẫu của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tương truyền bà là người giỏi giang văn tài và tinh thong địa lý, tướng số. Ngay từ khi Nguyễn Bỉnh Khiêm cất tiếng khóc chào đời, thấy con mình có tướng mạo khác thường, bà đã dốc lòng đào tạo con trai thành một tài năng giúp nước cứu đời. Với trí tuệ mẫn tiệp, thông minh từ nhỏ lại gặp được thầy giỏi như cụ bảng nhãn Lương Đắc Bằng khác nào như rồng gặp được mây, Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm trở thành một tài năng kiệt xuất nổi tiếng. Lớn lên trong một giai đoạn lịch sử nhà Lê suy thoái, các phe phái trong triều đó kị, chém giết lẫn nhau.Năm 1572, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra một triều đại mới.Thế là suốt cuộc đời thanh niên trai trẻ, Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống trong ẩn dật, không thi thố tài năng. Mãi đến năm ông 44 tuổi mới đi thi. Ba lần thi Hương, thi Hội, thi Đình ông đều đỗ đầu và đỗ Trạng Nguyên. Triều đình nhà Mạc rất coi trọng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông hi vọng triều đại nhà Mạc có thể xây dựng lại đất nước. Lúc này Mạc Đăng Dung đã nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh và rút về làm Thái thượng hoàng.Doanh là người có chí khí đảm lược. Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà học giả uyên thâm, một trí thức dân tộc đã nhìn thấy điều đó. Và ông hi vọng với nhân vật này, triều đại mới có thể đưa đất nước thoát khỏi tình trạng rối ren mà vua tui nhà Lê và các tập đoàn phong kiến trước đó gây ra. Nhưng niềm tin ấy không được đền đáp, chỉ được một thời gian ngắn (8 năm) ông đành phải từ quan về ở ẩn. Cũng như Nguyễn Trãi trước kia, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lánh đục về trong bảo toàn danh tiết và chí khí. Treo ấn từ quan, ông sống một cách lạc quan và hòa hợp với thiên nhiên. Giống như Nguyễn Trãi, ông cũng bầu bạn với gió trăng,rượu ‘’ Đêm đợi trăng cài bong trúc / Ngày chờ gió thổi tin hoa’’ (Thơ Nôm, bài 17). Ông lấy mừng vì thoát khỏi vòng danh lợi : ‘’ Thoát chân giữa chốn chốn giàu sang / Tuổi già mong được tuổi già thong dong / Hương lan gồm từ thơ nồng / Tiếng chim gọi khách ngoài song ngọt ngào’’ (Ngụ hứng, bài 6). Phải chăng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn cách sống phóng khoáng như Nguyễn Công Trứ ‘’ ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp’’ ? Nhưng không, lúc ông lạc quan nhất với thiên nhiên cũng chính là lúc ông phiền muộn nhất về việc dân, về việc nước. Có thể nói, Nguyễn Bỉnh Khiêm ẩn nhưng không lánh mặt với đời. Ông lui về sống ở quê một thời gian khá dài mà vẫn mang ước vọng về một xã hội vua sáng tui hiền như thời vua Nghiêu, vua Thuấn xưa: Đã ngoài mọi việc chăng còn ước, Ước một tui hiền, chúa thánh minh. (Thơ Nôm, bài 26) Ông luôn mong muốn đất nước thịnh vượng, thái bình và đời sống nhân dân no đủ và yên bình. Tương truyền, hình như để tránh những cuộc binh đao khói lửa, tương tàn cho chúng dân và nhìn thấy trước thời cuộc nên khi các tập đoàn phong kiến đến hỏi kế sách, ông đều bày cho họ những phương sách khác nhau để giữ thế “chân vạc”. Đọc thơ ông là thấy cả tấm lòng lo cho nước, thương đời, thương dân và một tâm hồn sáng suốt da diết với đạo lý:’’Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu,hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc’’(lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ).Vì thế mà sau khi về ở ẩn, ông vẫn mở trường dạy học mong đào tạo cho đời những tài năng ‘’kinh bang tế thế’’. Học trò của ông cũng có những người trở thành danh tướng, Trạng nguyên: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Quyền…Khi tuổi đã cao, sức đã yếu, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn mong mỏi được đem tài đức của mình lo dân giúp đời. Chế độ phong kiến khủng hoảng, không có đường lập công, ông đã chọn con đường lập ngôn, hi vọng những câu thơ tuyên truyền đạo đức, bằng uy vọng của mình, ông có thể góp phần vào việc “phù nghiêng, đỡ lệch”. Tấm lòng ưu ái rừng rực của ông đến già chưa thôi. 1.1 Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho đời một sự nghiệp thơ ca có giá trị. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhìn nhận là một trong những nhà văn hóa lớn của dân tộc. Ông là một chính khách có uy tín, bậc hiền triết, nhà tiên tri…nhưng nổi bật trên tất cả Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển của văn học dân tộc. Sự nghiệp văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm khá phong phú với một số lượng tác phẩm lớn. Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán có Bạch Vân am thi tập, Trung Tân quán bi kí, Thạch khánh kí và một số bài văn tế. Theo Bạch Vân am thi tập tiền tự do chính tác giả viết thì thơ chữ Hán có khoảng một nghìn bài. Hiện nay số còn lại chỉ khoảng hai phần ba. Về chữ Nôm có Bạch Vân quốc ngữ thi tập (còn gọi là Trình quốc công Bạch Vân quốc ngữ thi tập) với khoảng 170 bài thơ. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm làm theo thể Đường luật và Đường luật xen lục ngôn. Thơ không có đề mục cho từng bài và từng môn loại. Ngoài thơ Nôm, trong dân gian còn lưu hành nhiều câu sấmTrạng. Các tập sấm kí Nôm thường mang tên Trạng Trình và phần lớn viết theo thể lục bát như Trình quốc công sấm kí, Trình tiên sinh quốc ngữ. Sấm Trạng Trình là một hiện tượng văn học cần được tìm hiểu và xác minh thêm. Theo Phả kí, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bài phú bằng quốc âm. Bài phú này hiện nay vẫn chưa được tìm thấy. Nguyễn Bỉnh Khiêm có phong cách thơ rất riêng không lẫn với các nhà thơ cùng thời mặc dù vẫn tuân theo nguyên tắc sáng tác thơ văn trung đại. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết học nhưng vẫn gần gũi và dễ tiếp nhận. II. CHẤT TRIẾT HỌC TRONG THƠ BẠCH VÂN CƯ SĨ 2.1 Chất triết học trong thơ văn dân tộc Trong văn học Việt Nam từ thời xưa, ngay những sáng tác dân gian, nhân dân lao động đã đúc kết những kinh nghiệm có được trong cuộc sống lao động sản xuất và đấu tranh của mình ‘’Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm’’, lý giải được những hiện tượng thiên văn ‘’Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa’’… Nội dung của các tư tưởng, triết lý đó cũng đề cập đến nhiều lĩnh vực, như nhận thức luận: “Trăm hay không bằng tay quen”; mỹ học: “Cái nết đánh chết cái đẹp; Tốt gỗ hơn tốt nước sơn; Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân”; biện chứng pháp: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dà...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status