Một số tác phẩm kinh điển phương đông tư tưởng nhân chính qua các tác phẩm luận ngữ và Mạnh Tử - pdf 17

Download miễn phí Tiểu luận Một số tác phẩm kinh điển phương đông tư tưởng nhân chính qua các tác phẩm luận ngữ và Mạnh Tử



MỞ ĐẦU
MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 3
1. QUAN NIỆM VỀ DÂN 3
1.1. Khái niệm về dân 3
1.2. Vị trí và vai trò của Dân 4
2. VỀ ĐẠO TRỊ NƯỚC 5
3. NHÂN VÀ NHÂN NGHĨA TRONG NHÂN CHÍNH 6
KẾT LUẬN 10
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------
TIỂU LUẬN
MÔN: MỘT SỐ TÁC PHẨM KINH ĐIỂN PHƯƠNG ĐÔNG
TƯ TƯỞNG NHÂN CHÍNH QUA CÁC TÁC PHẨM
LUẬN NGỮ VÀ MẠNH TỬ
MỞ ĐẦU
Ngày nay, việc nghiên cứu và đánh giá lại vai trò của Nho giáo đã được giới nghiên cứu ở các nước châu Âu cũng như châu Á đặc biệt lưu tâm.
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức đã có nhiều đóng góp cho việc tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tư tưởng Nhân chính là cốt lõi, là nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị của Nho giáo.
Nhân chính là sự vận dụng phạm trù Nhân - phạm trù cốt lõi, trung tâm và cơ bản của Nho giáo vào việc “trị quốc, bình thiên hạ”, đồng thời cũng là để thực hiện mục đích cao nhất trong việc đào tạo con người mà Nho giáo đề cập. Vì vậy, khi tìm hiểu Nho giáo không thể bỏ qua tư tưởng Nhân chính - một tư tưởng đã góp phần cho việc xây dựng hệ thống hành chính và quản lý xã hội được Khổng Tử và Mạnh Tử đề cập trong tác phẩm Luận ngữ và Mạnh Tử.
NỘI DUNG
1. QUAN NIỆM VỀ DÂN
1.1. Khái niệm về dân
Khái niệm về Dân đã được Khổng - Mạnh nói tới trong khi trình bày học thuyết chính trị của mình. Trong những năm 60 của thế kỷ này, đã từng có cuộc tranh luận của các học giả Trung Quốc về khái niệm Dân.
Trong các bài nghiên cứu của các tác giả Việt Nam về học thuyết Khổng Mạnh cũng có những quan niệm khác nhau về Dân. Không có điều kiện để giới thiệu về các tranh luận trên, trong luận văn này chúng tui tự hạn chế ở việc coi Dân là khái niệm dùng để chỉ những người không ở bộ máy cai trị, đối lập với người cầm quyền.
Đọc sách Luận ngữ, ta thấy việc sử dụng hai danh từ Người và Dân của Khổng Tử có sự khác biệt tương đối chặt chẽ. Trong Luận ngữ có tới 48 lần dùng đến chữ Dân trong đó có 42 lần mang nội hàm là trăm họ, dân thường và 6 lần mang nội hàm là con người nói chung. Như vậy là có sự phân biệt giữa Dân với Người, đó cũng chính là sự phân biệt giữa người thống trị - là Người với người cai trị - là Dân.
Còn trong sách Mạnh Tử có đến 199 lần nói về chữ Dân cũng với các nội hàm tương tự như ý của Khổng Tử. Dân được Khổng - Mạnh nói đến khá nhiều và được trình bày theo các tiêu chí phân biệt như sau: hay là theo tiêu chuẩn đạo đức (người quan tử với kẻ tiểu nhân), hay là theo cương vị chính trị (người cai trị với người bị trị); hay theo nghề nghiệp (người lao tâm với người lao lực); hay theo hoàn cảnh sống (quan, quả, cô, độc).
Trong phạm vi nghiên cứu về Nhân Chính thì sự phân chia cơ bản dựa vào tiêu chí: Người cai trị và dân thường, cho nên có thể hiểu Dân là khái niệm để chỉ giai cấp nô lệ, còn Người là để chỉ giai cấp chủ nô cầm quyền, Dân là những người lao động chân tay, người bị sai kheién, người lao lực, nuôi người chứ không phải là người lao tâm, người có quyền lực chính trị, hành chính.
Từ quan niệm về Dân như vậy, Khổng - Mạnh đã đưa ra những quan niệm khác nhau về vị trí và vai trò của Dân.
1.2. Vị trí và vai trò của Dân
Khổng Tử nói: “Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo. Thảo thươngj chi phong tất yểu” - Này địa vị của người quân tử tức nhà cầm quyển tỷ như gió, đian vị của kẻ tiểu nhân tức là dân chúng tỷ như cỏ. Gió thổi qua thì cỏ rạp xuống). Như vậy, theo Khổng Tử Dân là người có vị trí thấp nhất và phải phụ thuộc vào người quân tử có vị trí, địa vị cao. Bởi vì vị trí thấp hèn “như cỏ” Dân phải phụ thuộc vào người cầm quyền chẳng khác gì gió thổi qua làm rạp cỏ xuống.
Mà dù Khổng Tử có đánh giá thấp về vị trí của Dân, nhưng mặt khác Khổng Tử lại nói rõ trong kinh Thư mà ông san định rằng: “Dân vi bang bảng” (dân là gốc nước). Điều này cho thấy mệnh đề tiến bộ, đề cao vai trò của Dân ấy được thể hiện rõ trong học thuyết chính trị của ông.
Mạnh Tử đã gọi Dân là dân thường, là người có vị trí thấp trong mối quan hệ giữa người có vị trí cao với dân thường, kẻ dưới thì mtu lại thể hiện quan niệm khá tiến bộ; coi mối quan hệ bề trên - kẻ dưới đó như mối quan hệ mật thiết giữa cha với con. Nhà cầm quyền là cha mẹ dân, phải thương yêu dân như thương yêu con cái của mình: “Thú tương thực, thả nhân ố chi. Vi nhân phụ mẫu, hành bất miễn ư suất thú nhi thực nhân, ô tại kỳ vi dân pụ mẫu giã” (Huống chi làm bậc cha mẹ dân, thi hành chính trị, lại chẳng ngăn cản được loài thú để cho chúng ăn thịt người, há đáng làm cha mẹ dân sao).
Như vậy nhà cầm quyền thi hành Nhân chính phải năhmf vào Dân, vì Dân. Vượt xa hơn Khổng Tử, Mạnh Tử đã đưa ra mệnh đề nổi tiếng khi đánh giá về vị trí, vai trò của Dân: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” - mệnh đề này chỉ rõ trong các vấn đề nều trên vấn đề Dân được coi là quan trọng nhất, tiếp theo là vấn đề xã tắc, cuối cùng mới đến vấn đề vua. Như vậy, chính Mạnh Tử đã đặt vua - xã tắc và dân trong mối quan hệ nối liền mà ở đó vị trí của Dân được nhấn mạnh và đề cao hơn cả. Theo trật tự Nho giáo quy định thì trong mối quan hệ bộ ba đó phải nói tới vua trước, rồi đến xã tắc, sau cùng mới đến Dân. Nhưng Mạnh Tử đã đảo trật tự đó và giải thích lý do cần đảo ngược trật tự như vậy là vì được lòng Dân thì mới có thể đạt ngôi Thiên tử, còn nếu được lòng vua, quan chư hầu thì nhiều lắm cũng chỉ có thể đạt chức quan to mà thôi. Ông nói: “Được lòng kẻ dân quê làm đến ngôi Thiên tử, được lòng Thiên tử chẳng qua làm chư hầu, được lòng chư hầu chẳng qua làm quan đại phu”, qua đây ta cũng cần hiểu rằng Mạnh Tử gắn liền đề cao Dân với lợi ích của người cai trị, đó cũng chính là sự đồng thời tồn tại trong mệnh đề của ông cả mặt tiến bộ cả mặt tiêu cực. Điều quan trọng cần ghi nhận ở tư tưởng của Mạnh Tử là nhận thức của ông về vai trò có ý nghĩa quyết định của Dân đối với an ninh của xã tắc và ngôi vua.
Như vậy phải chăng quan niệm như trên của Mạnh Tử đi ngược lại với nguyên tắc tôn quân của Nho giáo? Khổng Tử đánh giá hoàn toàn như vậy được bởi chính Mạnh Tử cùng quan niệm quyền cai trị Dân là do mệnh trời trao cho, người đứng đầu thiên hạ là do trời định nên ông cũng như Khổng Tử đã đồng nhất ý dân với lòng trời tạo nên sự lô gic trong quan niệm của mình như: “Dân với trời đã tương quan với nhau như thế thì trong thiên hạ dân là quý hơn.
Mệnh đề “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” của Mạnh Tử là mệnh đề tư tưởng cơ bản chỉ đạo các chính sách cụ thể để thực hiện Nhân Chính của ông, đồng thời cũng là mệnh đề rất có giá trị trong đường lối chính trị của Khổng - Mạnh.
2. VỀ ĐẠO TRỊ NƯỚC
Trong quan niệm của Khổng - Mạnh về các mối quan hệ xã hội, ta thấy hai ông đặc biệt quan tâm tới Lễ. Như đã trình bày trong chương I, Nhân là hạt nmhân của học thuyết chính trị của Khổng Tử. Nhân và Lễ quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, Nhân là nội dung của Lễ, còn Lễ là hình thức của Nhân. Vận dụng Nhân vào chính sách cai trị yêu cầu ph
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status