Đề án Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam - pdf 17

Download miễn phí Đề án Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam



Bên cạnh những thành tựu đạt được đáng khích lệ trong những năm qua, ngành dệt may của ta còn gặp nhiều khó khăn và tồn tại nhất định. Ngành dệt may Việt Nam do chưa có kế hoạch tổng thể, cha có chiến lược phát triển đồng bộ, chưa được đầu tư đúng mức nên còn gặp nhiều khó khăn và bị phân hoá thành 2 cực rõ rệt. Ngành dệt chủ yếu gặp phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài (trên 90%), hệ thống máy móc công nghệ lạc hậu, sản xuất ra sợi và vải không đáp ứng được yêu cầu chất lợng cho các xí nghiệp may xuất khẩu, chủ yếu là tiêu thụ tại thị trường trong nước lên đến 70% doanh thu. Trong khi đó các doanh nghiệp may được trang bị máy móc khá hiện đại lại may xuất khẩu là chính, doanh thu tiêu thụ nội địa chỉ chiếm 7,5 – 9,4% sản phẩm may của Việt Nam không chiếm lĩnh được thị trường nội địa bởi giá cao và phải mượn mác của các nước khác để xuất khẩu.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

khoác, quần áo thể thao, váy đầm, bảo hộ lao động, quần áo trẻ em, quần áo vest…
2. Thị trường Mỹ.
Dân số nước Mỹ khoảng 272 triệu người ít hơn các nước EU nhưng mức tiêu thụ hàng dệt may lại nhiều hơn gấp rưỡi EU (27 kg/người/năm) nên tổng nhu cầu sử dụng là rất lớn, thêm vào đó nhu cầu sử dụng đa dạng , phong phú. Nhu cầu lớn của thị trờng Mỹ đối với hàng dệt may được đáp ứng chủ yếu bằng nguồn nhập khẩu nên đây được xem là một thị trường tiềm năng rất lớn đối với các nước xuất khẩu hàng dệt may trên thế giới. Quá trình phát triển thương mại Mỹ và Việt Nam có thể được tính bắt đầu vào ngày 3/2/1994 Mỹ đã huỷ bỏ cấm vận thương mại với Việt Nam và sau đó Mỹ cho phép các Công ty Mỹ được xuất khẩu các mặt hàng có nhu cầu thiết yếu cho con người. Đến ngày 12 – 7- 1995 chính phủ Mỹ quyết định bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam, hai bên đã mở rộng trao đổi các đoàn thương mại tìm hiểu thị trường của nhau, đồng thời hợp tác cung cấp thông tin và những văn bản luật pháp, những chính sách, cơ chế, thủ tục để có những bước chuẩn bị cần thiết cho việc đàm phán Hiệp định thương mại của 2 nước. Sau 8 vòng đàm phán song phương 2 bên đã được thoả thuận về nguyên tắc các điều khoản của Hiệp định thương mại song phương. Hiệp định xử lý các vấn đề liên quan đến thương mại, hàng hoá, dịch vụ, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quan hệ giữa 2 nước.
Triển vọng về quan hệ thương mại hai nớc sau khi ký Hiệp định thương mại Việt – Mỹ là rất lớn. Do Mỹ là thị trường hấp dẫn và khá lý tưởng đối với các nước xuất khẩu hàng hoá trên thế giới, nước Mỹ có một nền ngoại thương phát triển mạnh và là một thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá hàng năm tăng lên đến trên 1 ngàn tỷ USD.Chiếm trên 12% tổng giá trị xuất khẩu và trên 14% tổng giá trị nhập khẩu của thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận được với thị trường Mỹ, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ tuy thấp nhưng có tốc độ tăng trưởng cao.
Hiện Việt Nam là nước đứng thứ 7 về xuất khẩu hàng may mặc dệt kim vào thị trường Hoa Kỳ. Sau khi hạn ngạch hàng dệt may được bãi bỏ, nhập khẩu từ các nước xuất khẩu hàng dệt may có chi phí thấp như Trung Quốc và ấn Độ tăng mạnh. Bên cạnh hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, hàng may mặc dệt kim nhập khẩu từ ấn Độ cũng tăng 37,91% so với năm 2004, lên 937 triệu USD.
Năm 2005, nhập khẩu hàng may mặc dệt thoi vào thị trường Hoa Kỳ đạt 37,514 tỉ USD, tăng 6,3% so với năm 2004. Trung Quốc cũng là nước đứng đầu về xuất khẩu hàng may mặc dệt thoi vào thị trường Hoa Kỳ với kim ngạch xuất khẩu đạt 10,231 tỉ USD, tăng 54,57% so với năm 2004, chiếm 27,27% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc dệt thoi của Hoa Kỳ. Tiếp theo là Mêhicô và ấn Độ với kim ngạch xuất khẩu tương ứng đạt 3,841 tỉ USD và 2,121 tỉ USD. Trong khi xuất khẩu của Mêhicô giảm 7,13%, thì xuất khẩu của ấn Độ lại tăng tới 32,75% so với năm 2004.
Do xuất khẩu của Trung Quốc sang Hoa Kỳ tăng quá nhanh, ngày 8/11/2005, Hoa Kỳ và Trung Quốc đã ký hiệp định hạn chế xuất khẩu 34 mặt hàng dệt may của Trung Quốc sang Hoa Kỳ trong thời hạn 3 năm. Hiệp định này có hiệu lực từ 1/1/2006, quy định hạn ngạch đối với một số mặt hàng dệt-may của Trung Quốc xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong 3 năm từ năm 2006 đến năm 2008. Trong số các mặt hàng may mặc có sơ mi cotton dệt kim, tất, sơ mi nam và bé trai dệt thoi, áo dệt kim, quần cotton, đồ lót, áo bơi, bộ complê len, sơ mi dệt kim từ sợi nhân tạo, quần từ sợi nhân tạo và quần từ tơ tằm/sợi thực vật. Hiệp định này đã đáp ứng các yêu cầu từ phía các nhà sản xuất hàng dệt-may Hoa Kỳ, nhưng cũng gặp không ít ý kiến phản đối từ phía Hiệp hội Nhập khẩu hàng dệt-may cũng như Hiệp hội các nhà bán lẻ Hoa Kỳ, do những biện pháp hạn chế nhập khẩu từ Trung Quốc, sẽ làm tăng giá sản phẩm dệt-may trên thị trường Hoa Kỳ, khi các nhà nhập khẩu buộc phải tìm kiếm các nhà xuất khẩu có mức giá cao hơn từ các nước xuất khẩu châu á và Trung Mỹ.
Dung lượng thị trường ; Doanh thu bán lẻ hàng may mặc trên thị trường Hoa Kỳ năm 2003 đã tăng 1,9% so với năm 2002, đạt 115,5 tỉ USD và dự báo sẽ tăng khoảng 2,1%/năm trong giai đoạn 2004 – 2008, lên 121,2 tỉ USD. Mặc dù mức tăng tiêu thụ ít nhiều bị ảnh hưởng của xu hướng suy giảm thu nhập, nhưng giá sản phẩm dệt-may cũng có xu hướng giảm do nhiều nhà sản xuất Hoa Kỳ đã chuyển cơ sở sản xuất ra nước ngoài, để giảm chi phí cũng như do tỉ trọng hàng may mặc giá rẻ nhập khẩu từ các nước có chi phí sản xuất thấp gia tăng. Các sản phẩm mang nhãn mác riêng của nhà sản xuất cũng như của các tập đoàn bán lẻ nổi tiếng vẫn là lựa chọn ưu tiên của người tiêu dùng Mỹ.
Kênh phân phối : Kênh bán lẻ hàng may mặc lớn nhất trên thị trường Hoa Kỳ là các chuỗi cửa hàng bán lẻ với doanh thu đạt 93 tỷ USD trong năm 2003, tăng 21,7% so với năm 1999, trong khi doanh thu của các cửa hàng bán lẻ độc lập giảm 10,4% so với năm 1999, chỉ đạt 22,5 tỉ USD. Các chuỗi cửa hàng chuyên doanh như “Gap” đã tăng doanh thu nhờ chiến lược tập trung vào các mặt hàng thời trang thông dụng cho các đối tượng tiêu dùng từ 20 – 30 tuổi.  Nhiều nhà bán lẻ cũng áp dụng chiến lược tập trung cho một số nhóm đối tượng tiêu dùng riêng biệt như hàng thời trang “cấp tiến” hay các đối tượng tiêu dùng trẻ. Hiện chi tiêu cho hàng may mặc của nhóm trẻ vị thành niên chiếm tới 20% tổng mức chi tiêu cho hàng may mặc của Hoa Kỳ.
Thị trường bán lẻ hàng may mặc của Hoa Kỳ có xu hướng “phân mảng” khá rõ nét. 5 nhà bán lẻ lớn nhất chiếm tới 28,1% tổng dung lượng thị trường, trong đó Gap chiếm 12,1%; TJX (Marshall’s, TJ Max, A.J.Wright) chiếm 7,4%; Limited Brands (Limited, Express, Victoria’s Secret) chiếm 4,2%; Burlington chiếm 2,7% và Charming Shoppes (Lane Bryant, Fashion Bug, Catherine’s), chiếm 2%.
Bên cạnh các kênh phân phối truyền thống, bán hàng qua mạng Internet đang có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây. Theo các nhà phân tích, đến năm 2008, khoảng 10% hàng may mặc sẽ được tiêu thụ qua mạng.
Không chỉ có EU mà cả Mỹ nguy cơ hàng xuất khẩu dệt may giá rẻ của Trung Quốc tràn ngập thị trường thế giới đã làm bùng nổ những căng thẳng giữa Washington và Bắc Kinh, xuất phát từ mối quan ngại các nhà máy sản xuất của Mỹ sẽ phải đóng cửa và hàng ngàn lao động mất việc làm. Cục Thống kê Lao động Mỹ cho biết, đến cuối tháng 1/2005 trên cả nước có khoảng 665.000 lao động làm việc cho ngành dệt may. Cho đến nay đã có 12.000 lao động bị sa thải. Giới phân tích dự báo Trung Quốc có thể chiếm tới 70% thị trường hàng dệt may của Mỹ trong vòng 2 năm tới, so với 16% ở thời điểm trước khi ATC hết hiệu lực. Liên minh các nhóm thương mại Mỹ cho rằng thực trạng hiện nay cũng đủ bằng chứng để buộc Chính phủ Bush phải đưa ra biện pháp ngăn chặn khẩn cấp đối với hàng dệt may của Trung Quốc. Phó Trợ lý Bộ trưởng Thương mại Mỹ Jim Leonard cho biết, trên thực tế, chính phủ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status