Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước - pdf 18

Download miễn phí Luận văn Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 7
1.1. Khái niệm, nội dung, vai trò pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước 7
1.2. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước 34
1.3. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính của một số nước và bài học kinh nghiệm vận dụng ở Việt Nam 38
Chương 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 45
2.1. Quá trình phát triển pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước 45
2.2. Thực trạng pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước 61
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 90
3.1. Yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước 90
3.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước 96
3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước 102
KẾT LUẬN 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 116
 
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

pháp luật” cho chuẩn xác. Bởi vì phạm pháp (tức là vi phạm pháp luật) hẹp hơn trái pháp luật, không thể chỉ khiếu nại, tố cáo hành vi, vi phạm pháp luật còn hành vi trái pháp luật lại bỏ qua được. Trái pháp luật bao hàm cả vi phạm pháp luật. Đồng thời Hiến pháp 1980 cũng mở rộng chủ thể của hành vi trái pháp luật bị khiếu nại, tố cáo từ phía nhân dân từ chỉ là “nhân viên cơ quan nhà nước” thành là “cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hay bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vị đó”.
Hiến pháp 1980, tiếp tục quy định địa chỉ để công dân gửi đơn thư khiêu nại, tố cáo hay đến trình bày trực tiếp ở bất cứ cơ quan nhà nước nào, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân phát giác các hành vi trái pháp luật của các cơ quan, tổ chức, đơn vị hay bất cứ cá nhân nào trong bộ máy nhà nước.
Để đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, Điều 73 Hiến pháp 1980 quy định: “Các điều khiếu nại và tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng” và “người bị thiệt hại có quyền được bồi thường”. Ngoài ra, còn bổ sung 2 điểm quan trọng: Một là, mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh; Hai là, “Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo”. Những quy định này nhằm bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật trong việc xử lý cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật đồng thời bảo vệ quyền lợi và sự an toàn của người khiếu nại, tố cáo, khuyến khích nhân dân tích cực thực hiện quyền khiếu nại và quyền tố cáo của mình nếu phát hiện những việc làm trái pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội... hay bất cứ cá nhân nào thuộc cơ quan, tổ chức đó.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, các văn bản pháp luật về giám sát nói chung, về giám sát của nhân dân nói riêng, tiếp tục có bước phát triển mới về chất và lượng, đánh dấu sự phát triển đa dạng của các chủ thể giám sát đối với quyền lực nhà nước. Đặc biệt là giám sát của Ban Thanh tra nhân dân. Ngày 15/2/1984, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị quyết số 26-HĐBT về tăng cường tổ chức thanh tra và nâng cao hiệu lực thanh tra. Nghị quyết đã xác định: Tổ chức thanh tra nhân dân là cấp cơ sở trong hệ thống thanh tra nhà nước và là tổ chức xã hội của quần chúng ở cơ sở; thực hiện thống nhất hoạt động thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân. Qua nội dung trên, cho thấy kết hợp giữa thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân là thể hiện sự phát triển mới của pháp luật thanh tra nhưng thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân kết hợp làm một thì lại là một khiếm khuyết cần được khắc phục.
01/4/1990, Hội đồng Nhà nước nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố ban hành Pháp lệnh thanh tra, trong đó có quy định về tổ chức, hoạt động của thanh tra nhân dân. Nghị định 241/HĐBT ngày 5/8/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định: Ban Thanh tra nhân dân được tổ chức ở các đơn vị cơ sở: cơ quan chính quyền, xã, phường, thị trấn; cơ sở kinh tế, xí nghiệp, hầm mỏ, công ty, công trường, nông trường, bến cảng; cơ quan sự nghiệp, trường học, bệnh viện; cơ quan hành chính, văn phòng các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân từ cấp huyện trở lên.
Điểm mới của Pháp lệnh thanh tra năm 1990 là tách Thanh tra nhân dân ra khỏi Thanh tra nhà nước và chuyển sự chỉ đạo, quản lý, tổ chức cho Uỷ ban MTTQ xã, phường, thị trấn. Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan hành chính, sự nghiệp, đơn vị sản xuất, kinh doanh thì do Đại hội những người lao động bầu ra, Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở chỉ đạo hoạt động. Như vậy việc thành lập Ban Thanh tra nhân dân là phù hợp và có cơ sở pháp lý, đúng với các quy định của nhà nước.
Để thực hiện pháp lệnh và nghị định về thanh tra nhân dân, Thanh tra nhà nước và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam ban hành Thông tư liên tịch số 01/TT-LT ngày 01/11/1991 về hướng dẫn thực hiện Nghị định 241/HĐBT ngày 5/8/1991 của Hội đồng Bộ trưởng đối với Ban Thanh tra nhân dân tại các cơ quan hành chính, sự nghiệp, các đơn vị kinh tế quốc doanh. Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam cũng ban hành Thông tư số 08/TT-MTTQVN ngày 25/11/1991 về hướng dẫn tổ chức và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn. Trên cơ sở quy định của pháp luật, Ban Thanh tra nhân dân đã thực hiện chức năng giám sát của mình đối với cơ quan hành chính nhà nước, thể hiện bước đầu hình thức dân chủ trực tiếp của nhân dân ở cấp cơ sở. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan pháp luật thời kỳ này chưa có quy định cụ thể về địa vị pháp lý cũng như nhiệm vụ, quyền hạn phạm vi hoạt động cụ thể của Ban Thanh tra nhân dân, mặt khác cũng không có quy định cơ chế phối hợp giữa UBND và Uỷ ban MTTQ cấp trên với Ban Thanh tra nhân dân nên thực tế hoạt động phối hợp rất lúng túng. Bên cạnh đó, hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân hay bị UBND chỉ đạo hay lại vượt quá chức năng, thẩm quyền lấn sâu vào lĩnh vực thuộc hoạt động của UBND nên không thực sự phát huy được vai trò, trách nhiệm của mình trong giám sát hoạt động của chính quyền và cán bộ, công chức ở cơ sở.
Điểm khác của pháp luật thời kỳ này là địa vị pháp lý của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên được ghi nhận trong Hiến pháp. Song, chức năng giám sát và phản biện xã hội chưa được đề cập đến mà chủ yếu “tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, giáo dục và động viên nhân dân...” [53, tr 72].
Điểm nổi bật của Hiến pháp 1980 là khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN”. Không ngừng tăng cường pháp chế phải chăng một trong những nội dung đó là “chịu sự giám sát của nhân dân, phát huy dân chủ XHCN”. Dân chủ XHCN là gì nếu quyền làm chủ của nhân dân không phải là làm chủ quyền lực nhà nước và có năng lực kiểm soát, hạn chế quyền lực nhà nước qua quyền năng giám sát của mình. Thuật ngữ giám sát (Điều 8, Hiến pháp 1980) thay cho từ kiểm soát (Điều 6, Hiến pháp 1959) là cơ sở để phát triển pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan nhà nước trong giai đoạn tới.
2.1.2.4 Giai đoạn 1992 đến nay
Hiến pháp 1992 ra đời sau 12 năm thực hiện Hiến pháp 1980 và ở thời điểm sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ năm 1986 đang đòi hỏi tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước, đáp ứng yêu cầu phát triển của giai đoạn mới. Để đạt được mục đích đó, một trong những yêu cầu là phải cải cách, đổi mới nền hành chính nhà nước, trong đó đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính là khâu quan trọng nhất. Xu thế dân chủ hoá xã hội đi liền với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và tăng cường chế pháp chế đặt ra hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước phải trong khuôn khổ pháp luật và phải chịu sự giám sát của nhân dân ngoài giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước. Trên cơ sở Hiến pháp 1992, hàng...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status