Cải cách tư pháp đảm bảo quyền con người ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp - pdf 20

Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
KIẾN NGHỊ CỦA ĐỀ TÀI
CẢI CÁCH TƯ PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, để đẩy nhanh quá trình cải cách tư pháp, đề tài đưa ra một số kiến nghị sau:


KIẾN NGHỊ THỨ NHẤT:
VỀ QUAN ĐIỂM CẢI CÁCH TƯ PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
Việc CCTP hiện nay cần xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về pháp luật và công tác tư pháp. Đây là những luận cứ khoa học cần được vận dụng sáng tạo vào thực tiễn. Cụ thể, CCTP nhằm đảm bảo quyền con người ở Việt Nam cần quán triệt một số quan điểm sau đây:
- Cải cách tư pháp phải dựa trên các yêu cầu về đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp theo hướng nhà nước pháp quyền
Trước yêu cầu đổi mới hệ thống tư pháp, xây dựng NNPQ XHCN thì việc CCTP là yêu cầu bức thiết. Muốn thực hiện mục tiêu trên đòi hỏi xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có tính chuyên nghiệp cao, có bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, có đạo đức nghề nghiệp và kinh nhiệm xã hội. Việc CCTP phải dựa trên các quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng NNPQ, mà trong đó trọng tâm là đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND.
Cụ thể hơn, vấn đề CCTP nhằm đảm bảo quyền con người trong bối cảnh xây dựng NNPQ hiện nay cần chú ý nhấn mạnh tới tính tối cao của
pháp luật trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Các quyết định của cơ quan tư pháp có ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền và lợi ích của con người, do đó những hoạt động này phải tuân thủ pháp luật tuyệt đối dựa trên nguyên tắc các cơ quan và người tiến hành tố tụng chỉ được phép làm những gì mà pháp luật cho phép. Tính thượng tôn pháp luật và công lý là nguyên tắc, chuẩn mực trong tổ chức và hoạt động tư pháp, đây cũng chính là tính đặc trưng của NNPQ.
Đảm bảo tính độc lập, khách quan của các cơ quan tư pháp là một yêu cầu quan trọng trong quá trình CCTP ở nước ta. Yêu cầu này cần được cụ thể hóa thành các qui định pháp luật phân định một cách rõ ràng, rành mạch về vị trí, thẩm quyền, quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan tư pháp, từng chức danh tư pháp. Bên cạnh đó cũng cần làm rõ mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp (theo chiều dọc, chiều ngang), mối quan hệ giữa cơ quan tư pháp với cơ quan hành chính và với đảng cầm quyền.
- Cải cách tư pháp nhằm đảm bảo quyền con người phải gắn với việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo hướng đồng bộ, chuyên nghiệp
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ ra “công tác cán bộ là gốc của mọi công việc”, đối với đội ngũ cán bộ tư pháp thì cần “phụng công thủ pháp, chí công, vô tư” và phải “góp phần của mình thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ của ta” . Để nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp cần chú trọng đến công tác cán bộ. Chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp được tạo nên bởi nhiều yếu tố như: số lượng, cơ cấu, cấu trúc bộ máy, cơ chế tổ chức điều hành, cách lãnh đạo quản lý, phẩm chất và năng lực…
Để đảm bảo hoạt động của bộ máy tư pháp hiệu lực và hiệu quả thì phải xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp một cách đồng bộ, toàn diện, đảm bảo cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ năng lực để đạt được hiệu quả hoạt động thực tiễn. Về trình độ chuyên môn, họ phải là những người có kiến thức về pháp luật chuyên sâu, kỹ năng nghề nghiệp, tin học, ngoại ngữ, kiến thức cơ bản về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. cần xác định cán bộ tư pháp là những người có chức danh, và nghề nghiệp của họ có tính chuyên nghiệp cao, do đó, đội ngũ này phải có kiến thức vững vàng, có bản lĩnh nghề nghiệp. Họ phải là người am hiểu pháp luật, có kiến thức thực tiễn, hoạt động của họ phải đảm bảo tính dân chủ, sự vô tư.
Cải cách tư pháp phải gắn liền với việc đổi mới chế độ, chính sách đãi ngộ, điều kiện làm việc cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Cơ chế, chính sách phù hợp sẽ là động lực thúc đẩy tính chủ động, sáng tạo, nhiệt tình và trách nhiệm của cán bộ tư pháp. Xây dựng cơ chế, chính sách đối với cán bộ tư pháp phải kết hợp cả lợi ích vật chất và động viên tinh thần, tạo động lực để đội ngũ này không ngừng phấn đấu, vươn lên. Quá trình xây dựng và đổi mới chính sách đãi ngộ cần xem xét đến tính chất đặc thù về nghề nghiệp của cán bộ tư pháp; phải hướng vào việc phát huy chức năng động, sáng tạo của từng cá nhân, đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gắn trách nhiệm với quyền lợi của mỗi cán bộ tư pháp.
- Cải cách tư pháp nhằm đảm bảo quyền con người phải gắn liền với quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự
về chuyên môn và chính trị. Ngành đã có những qui định mới về tiêu chuẩn, qui trình tuyển chọn và bổ nhiệm kiểm sát viên. Để tăng cường lực lượng cán bộ, ngành kiểm sát đã tuyển dụng mới cán bộ, thực hiện điều động, luân chuyển cán bộ, kiểm sát viên. Có thể nói rằng, cho đến nay tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ của ngành kiểm sát về cơ bản đã đi vào ổn định, đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới.
- Về công tác chuyên môn, nghiệp vụ.
Ngành kiểm sát nhân dân đã thực hiện tốt chức năng thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố được thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả trong tố tụng, đảm bảo việc điều tra, truy tố và xét xử theo đúng qui định pháp luật, ít để xảy ra oan, sai và bỏ lọt tội phạm. Ngành đã chú trọng đẩy mạnh hoạt động kiểm sát điều tra ngay từ đầu, thực hiện việc nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát điều tra nên chất lượng điều tra ngày càng tốt hơn, biểu hiện qua việc số lượng hồ sơ phải trả lại cơ quan điều tra để điều tra bổ sung.
Số vụ hình sự Viện kiểm sát các cấp đã kiểm sát điều tra là 376.892 vụ /558.759 bị can. Viện kiểm sát các cấp yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố điều tra 1.337 vụ án, trực tiếp khởi tố yêu cầu Cơ quan điều tra điều tra 202 vụ án, huỷ bỏ 551 quyết định khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra. Các trường hợp bắt, tạm giữ chuyển khởi tố hình sự đạt tỷ lệ ngày càng cao qua các năm: năm 2002 đạt tỷ lệ 87%; năm 2003 là 89,2 %; năm 2006 là 95,3%; năm 2007 là 95,2%. Các trường hợp khởi tố điều tra sau phải đình chỉ do bị can không phạm tội giảm đáng kể qua các năm: năm 2002, đình chỉ điều tra đối với 543 bị can (tỷ lệ 0,6%); năm 2005 là 138 bị can (tỷ lệ 0,16%); năm 2006 là 163 bị can (tỷ lệ 0,17%); năm 2007 là 135 bị can (tỷ lệ 0,13%). Truy tố tội phạm đạt tỷ lệ cao qua các năm: Năm 2002, số vụ truy tố đạt tỷ lệ 96% so với số vụ đã thụ lý; năm 2003 đạt 98,3%; năm 2004 đạt 98,5%; năm 2005 đạt 98,85; năm 2006-2007 đạt 99,1%.
Viện kiểm sát các cấp thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử theo thủ tục sơ thẩm là 297.965 vụ án; theo thủ tục phúc thẩm là 70.594 vụ án; theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là 1.573 vụ án. Tòa án đã xét xử 4.546 VAHS do Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, chấp nhận kháng nghị 3.130 vụ, đạt tỷ lệ 68,8%; Tòa án xét xử 729 vụ do Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, chấp nhận kháng nghị 653 vụ, đạt tỷ lệ 89,6% .
Công tác kiểm sát việc giải quyết các VAHS đã có những chuyển biến rõ nét, các chỉ tiêu về kiểm sát thụ lý, lập hồ sơ, kháng nghị, tham gia phiên toàn đã được cải tiến; chất lượng kháng nghị ngày càng được nâng cao. Nhằm đẩy mạnh công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ và cải tạo, VKSND các cấp đã thực hiện tốt chế độ kiểm tra, giám sát thường xuyên và định kỳ đối với hệ thống nhà tạm giam, nhằm đảm bảo việc bắt và giam giữ người của các cơ quan có thẩm quyền theo đúng các qui định của pháp luật; đảm bảo sự tôn trọng danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền trong tố tụng của người bị giam giữ; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong giam giữ.
Thông qua hoạt động kiểm sát thi hành án, VKSND các cấp đã phát hiện kịp thời nhiều vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thi hành án như Tòa án quên không ra quyết định thi hành án; cho người bị kết án được tạm hoãn, tạm đình chỉ, hưởng thời hiệu thi hành án không đúng qui định. VKSND các cấp đã chú trọng đến việc kiểm tra định kỳ và bất thường tại các nơi giam giữ và cải tạo, trực tiếp ra quyết định trả tự do cho nhiều người bị cải tạo, giam giữ không có căn cứ, trái pháp luật. Công tác kiểm sát thi hành án được tăng cường bằng việc quản lý chặt chẽ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. VKSND các cấp đã kiểm sát hết sức chặt chẽ và thận trọng, đặc biệt đối với các lệnh bắt khẩn cấp, lệnh gia hạn tạm giữ, lệnh tạm giam và gia hạn tạm giam, không phê duyệt các lệnh này nếu thấy không đủ căn cứ pháp luật.
Qua kiểm sát hoạt động tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành hình phạt tù, VKSND các cấp đã quyết định trả tự do cho 239 người bị giam giữ không có căn cứ và trái pháp luật; ban hành 12.420 kiến nghị, kháng nghị yêu cầu cơ quan quản lý việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù khắc phục vi phạm pháp luật và sơ hở trong việc quản lý các đối tượng.


K7wB8xQ02F29Sro
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status