Xây dựng phương pháp định lượng đồng thời Lumivudin Zidovudin và Nevirapin trong chế phẩm viên nén bằng MEKC - pdf 27

Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vào tháng 6 năm 2011, tại Hội nghị cấp cao về HIV/AIDS ở New
York, Mỹ, Việt Nam đã khẳng định lại quyết tâm của mình trong công cuộc
phòng, chống HIV/AIDS và cam kết thực hiện những mục tiêu mới thông qua
việc ký Tuyên bố Chính trị năm 2011 về HIV/AIDS: Tăng cường nỗ lực để
loại trừ HIV/AIDS. Để có thể thực hiện mục tiêu đó, ngoài những biện pháp
xã hội cần được thực hiện thì việc kiểm soát chất lượng thuốc dùng trong điều
trị cũng góp phần quan trọng không kém. [10]
Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều thuốc dùng để điều trị HIV. Tuy
nhiên, theo khuyến cáo của tổ chức y tế thế giới WHO, để điều trị HIV nên
dùng phối hợp hai thuốc NRTIs hay cùng phối hợp với một thuốc NNRTIs
mà không nên đơn trị liệu vì có thể dẫn đến kháng thuốc, làm giảm hiệu quả
điều trị. [3], [11], [13]
Xuất phát từ nhu cầu đó, trên thị trường bắt đầu xuất hiện những thuốc
ở dạng hỗn hợp đa thành phần. Chế phẩm chúng tui dùng nghiên cứu cũng là
một trong số đó. Vì vậy, việc kiểm tra chất lượng cũng như xác định các
thành phần trong chế phẩm hỗn hợp đóng một vai trò hết sức quan trọng trong
việc đảm bảo chất lượng thuốc, đem lại sự an toàn, hiệu quả cho người sử
dụng.
Hiện nay, sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) là phương pháp phân tích
được đa số các Dược điển quốc tế lựa chọn trong kiểm nghiệm thuốc điều trị
HIV. Ưu điểm nổi bật của phương pháp này là độ lặp lại, độ chính xác cao,
khả năng tách tốt, độ nhạy cao và giới hạn phát hiện nhỏ. Tuy nhiên, phương
pháp này đòi hỏi phải sử dụng một lượng lớn dung môi tinh khiết, đắt tiền,
nhiều loại dung môi có thể gây độc với người phân tích và ô nhiễm môi
trường. Đồng thời phương pháp này tương đối hạn chế trong việc phân tích
các chất có khả năng ion hóa, nhất là sắc ký lỏng hiệu năng cao pha đảo RP –
HPLC (Reversed – phase liquid chromatography). [16], [17]
Nhằm mục đích xây dựng một phương pháp nghiên cứu phân tích ít tốn
kém và ít độc hại hơn, chúng tui hướng đến phương pháp điện di mao quản.
Đã có nhiều nghiên cứu phân tích 3TC, AZT & NVP bằng phương pháp
HPLC. Tuy nhiên, chưa thấy một nghiên cứu nào phân tích định lượng đồng
thời ba chất đó bằng phương pháp CE. Mặt khác, CE tuy không còn mới lạ
trên thế giới, nhưng ở Việt Nam, việc ứng dụng CE vào trong kiểm nghiệm
dược phẩm vẫn còn rất hạn chế. Với những mục đích trên, đồng thời nhằm
nâng cao chất lượng việc xây dựng tiêu chuẩn và quản lý các thuốc điều trị
HIV đang được sử dụng tại Việt Nam; giúp kiểm nghiệm viên có thêm nhiều
lựa chọn khi tìm phương pháp kiểm nghiệm phù hợp với điều kiện nơi làm
việc nhất, chúng tui đã tiến hành khóa luận “Xây dựng phương pháp định
lượng đồng thời Lamivudin, Nevirapin & Zidovudin bằng MEKC” nhằm
hai mục tiêu
- Xây dựng phương pháp phù hợp và ổn định để tách và định lượng
đồng thời Lamivudin, Zidovudin & Nevirapin.
- Ứng dụng phương pháp đã xây dựng được để kiểm tra một số chế
phẩm chứa Lamivudin, Zidovudin & Nevirapin được dùng trong
phác đồ điều trị HIV/AIDS.
6
1.1.3 Ứng dụng Lamivudin, Zidovudin & Nevirapin trong điều trị HIV
1.1.3.1Các nhóm thuốc điều trị HIV
- Nhóm 1: Thuốc ức chế men sao chép ngược có gốc nucleoside
(nucleoside reverse transcriptase inhibitors = NRTIs)
VD: Zidovudin; Didanosin; Zalcitabin; Stavudine; Lamivudin; Abacavir;
Tenofovir disoproxil fumarate.
- Nhóm 2: Thuốc ức chế men sao chép ngược không có gốc nucleoside
(non-nucleoside reverse transcriptase ninhibitors =NNRTIs)
VD: Nevirapin; Delavirdin; Effavirenz
- Nhóm 3: Thuốc ức chế proteases (protease inhibitors = PIs)
VD: Indinavir; Ritonavir; Saquinavir; Nelfinavir; Amprenavir; Lopinavir.
Qua nghiên cứu, người ta thấy không nên đơn hóa trị liệu mà nên phối
hợp các thuốc nhóm 1 với nhau và với một thuốc nhóm 2 hay với một thuốc
nhóm 3 để đạt được hiệu quả điều trị cao và tránh kháng thuốc.
1.1.3.2Phác đồ phối hợp trong điều trị HIV [3], [11], [13], [20]
Trong liệu pháp kháng retrovirus, thuốc được chọn lọc là những thuốc
tương tự nucleoside. Hiện nay chưa biết rõ lúc nào là thời điểm tốt nhất để bắt
đầu điều trị với thuốc kháng retrovirus. Liệu pháp kháng retrovirus cũng làm
tăng thời gian sống sót ở người bệnh có số lượng tế bào CD4 dưới 500 trong
1mm3. Liệu pháp này cũng có thể dùng cho người bệnh có mật độ HIV trên
30.000/ml huyết tương, không phụ thuộc vào số lượng CD4, vì mật độ HIV là
một yếu tố tiên lượng sự tiến triển của bệnh. Mật độ virus cao hơn dẫn đến
giảm tế bào CD4 nhanh hơn. Mục tiêu điều trị là đạt mật độ HIV ở mức
không thể phát hiện được.
Liệu pháp chuẩn hiện nay gồm 2 thuốc tương tự nucleoside kháng
retrovirus, cùng với một thuốc ức chế protease.


1e7uq6MjocAS5nC
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status