Tiếp tục nghiên cứu thành phần hóa học của hạt cần tây (Apium graveolens L.) - pdf 27

Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối

ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống của con người ngày càng sung
túc, đầy đủ. Đi kèm theo đó là sự phát triển ngày càng gia tăng của một số
bệnh liên quan đến chuyển hóa như béo phì, gút, cao huyết áp, xơ vữa động
mạch, rối loạn chuyển hóa lipid… Chế độ sinh hoạt không hợp lý cùng với
việc sử dụng quá nhiều đồ ăn nhanh, giàu chất béo, lười vận động là nguyên
nhân trực tiếp gây ra tình trạng trên.
Từ xa xưa, con người đã biết khai thác và sử dụng nhiều loài thảo dược
để chữa bệnh. Cây Cần tây thuộc họ Cần (Apiaceae), có nguồn gốc từ châu
Âu, được du nhập vào Việt Nam và được trồng rộng rãi ở nhiều nơi. Tại Việt
Nam, Cần tây từ lâu đã được sử dụng làm rau ăn, gia vị và làm thuốc. Cần tây
có mặt trong nhiều bài thuốc dân gian (chữa thống phong, cao huyết áp,
phong thấp…). Một số kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng cây Cần tây
có tác dụng tốt trong điều trị các bệnh liên quan đến chuyển hoá như các
bệnh về khớp (viêm khớp, gút), cao huyết áp [29], rối loạn chuyển hóa lipid,
xơ vữa động mạch [38]…Bên cạnh đó, dịch chiết từ hạt Cần tây còn có tác
dụng bảo vệ tế bào gan trước các tác nhân gây hại như Acrylamid, giúp chống
lại sự hình thành các khối u ở chuột thí nghiệm [17].
Nhận thức rõ vai trò và ứng dụng của Cần tây trong y học, một số
công trình nghiên cứu về thành phần hóa học của hạt Cần tây đã được thực
hiện nhưng chưa đầy đủ. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để xác định những
thành phần hóa học mới có hoạt tính sinh học từ cây Cần tây là cần thiết.
Với mục tiêu nghiên cứu về thành phần hóa học của hạt Cần tây, chúng
tui tiến hành đề tài “Tiếp tục nghiên cứu thành phần hóa học của hạt Cần tây
(Apium graveolens L.)” với những nội dung sau:
1. Nghiên cứu thành phần tinh dầu hạt Cần tây.
2. Chiết xuất các phân đoạn dịch chiết từ hạt Cần tây.
3. Phân lập chất từ phân đoạn dịch chiết n-hexan hạt Cần tây và sơ bộ nhận
dạng các chất phân lập được.
Chương 1. TỔNG QUAN
1.1.Về thực vật
1.1.1. Tên gọi
- Tên khoa học của cây Cần tây: Apium graveolens L., họ Cần (Apiaceae)
- Tên đồng nghĩa: Apium dulce Mill, Apium graveolens subsp. dulce (Mill.)
Schübl. & G. Martens.
- Tên tiếng Anh: Celery.
1.1.2. Đặc điểm thực vật và phân bố loài Apium graveolens L.
Cây thảo, cao từ 15-150cm, có mùi thơm mạnh. Lá ở gốc có hình
thuôn hay hình trứng ngược, kích thước lá 7-18cm x 3.5-8cm, lá xẻ ba hay
chia ba thùy, thùy cuối cùng có dạng hình thoi, kích thước 1.2-2.5cm x 0.8-
2.5cm, có khía tai bèo hay có răng cưa. Các lá phía trên có cuống ngắn, phiến
lá hình tam giác thường xẻ 3, thùy cuối cùng có hình trứng ngược. Cụm hoa
tán thường mọc đối diện với lá, kích thước 1.5-4cm theo chiều ngang, cuống
hoa thường mập và ngắn, dài 4-15mm ít khi bị teo đi. Các cánh hoa bao bọc
phía ngoài của cụm hoa có 3-8(-16) cánh hoa mảnh, kích thước 0.5-2.5cm.
Các tán hoa có 7-25 hoa, hoa có kích thước 6-9mm theo chiều ngang. Cuống
quả dài 1-1.5mm, quả có kích thước 1.3-1.5 x 1-2mm. Ra hoa và ra quả từ
tháng 4 đến tháng 7 [19].
Loài Apium graveolens L. có nguồn gốc từ châu Á và châu Âu, được
du nhập và trồng rộng rãi ở khắp nơi trên thế giới. Từ thời cổ đại, cây đã được
trồng và sử dụng như một loại rau ăn và là một vị thuốc phổ biến trong nhiều
nền y học cổ truyền. [19]
Ở Việt Nam, loài A.graveolens L. thường gọi là cây Cần tây. Cây mới
di nhập vào nước ta và được trồng rộng rãi ở nhiều nơi để làm rau ăn, làm
thuốc chữa cao huyết áp [8].
1.2. Thành phần hóa học của hạt Cần tây
1.2.1. Tinh dầu
Hạt Cần tây chứa 2-3% tinh dầu [13], trong đó có d-limonen (60%);
selinen (10%); các phthalid; santalol; α và β-eudesmol; hydrocarvon. Các
phthalid gồm 3-n-butyl phthalid; sedanenolid; sedanolid; anhydrid sedanonic
[13].
Thành phần hóa học của tinh dầu hạt Cần tây được tổng kết ở bảng 1.1.
Bảng 1.1: Thành phần hóa học của tinh dầu hạt Cần tây

Hàm lượng
Tài

Nhận xét chung: Cho đến nay đã phát hiện khoảng 61 chất có trong hạt
Cần tây, chủ yếu thuộc các nhóm tinh dầu, flavonoid, coumarin. Trong đó có
hai nhóm chất rất được quan tâm nghiên cứu và được coi là hoạt chất chính
của hạt Cần tây là tinh dầu và flavonoid.
1.3. Tác dụng sinh học của hạt Cần tây
1.3.1. Tác dụng hạ huyết áp
Tác dụng hạ huyết áp của hạt Cần tây (A. graveolens L.) là do 3-n
butylphthalid (3nB) - một thành phần có trong tinh dầu hạt Cần tây gây nên.
Cơ chế tác dụng của (3nB) tương tự như một thuốc lợi tiểu và giãn
mạch, nó tác động lên sự tổng hợp Prostagladin làm giảm thể tích tuần hoàn
và gây giãn mạch dẫn đến hạ huyết áp. Ngoài ra nó còn tác động như một
thuốc chẹn kênh Ca++ làm cho các tế bào cơ được nghỉ ngơi và làm giảm nguy
cơ co thắt động mạch. Bên cạnh đó, 3nB còn có tác dụng hạ cholesterol máu,
làm giảm nguy cơ hình thành các mảng vữa xơ động mạch, làm tăng tính đàn
hồi của các mạch máu, giảm sức cản ngoại vi và giảm huyết áp [29].
Tiêm phúc mạc 13 ngày 3nB với liều 2.0 và 4.0mg/ngày cho thấy hiệu
quả hạ huyết áp đáng kể trong khi liều 0.5mg/ngày cho hiệu quả giảm huyết
áp đáng kể chỉ vào ngày thứ 12 [37].
1.3.2. Tác dụng chống viêm
Dịch chiết ether dầu hỏa, dịch chiết methanol từ hạt Cần tây có tác
dụng chống viêm. Nghiên cứu được thực hiện trên 4 lô chuột, mỗi lô gồm 6
chuột cống trắng trọng lượng 150 + 6,049 g. 3 lô được tiêm màng bụng kali
oxonat liều 250 mg/kg. Một giờ sau, trong 3 lô đã tiêm kali oxanat, 1 lô được
uống dịch chiết ete dầu hỏa từ hạt Cần tây liều 500 mg/kg, 1 lô được uống
dịch chiết methanol từ hạt Cần tây liều 500 mg/kg. Sau 3h và 6h, lấy máu từ
tĩnh mạch mắt chuột để xác định tốc độ lắng hồng cầu (ESR), nồng độ nitric
oxid (chất trung gian gây viêm) [44].
Kết quả: Lô uống dịch chiết ete dầu hỏa, nồng độ nitric oxid giảm 19%
sau 3h, giảm 29% sau 6h so với lô chứng, chỉ số ESR giảm 40% sau 3h, giảm 36% sau 6h so với nhóm chứng. Lô uống dịch chiết methanol, nồng độ nitric
oxid giảm 13% sau 3h, giảm 23% sau 6h so với lô chứng, chỉ số ESR giảm
18% sau 3h, giảm 26% sau 6h so với nhóm chứng.
Dựa vào các kết quả trên ta thấy, dịch chiết ete dầu hỏa và dịch chiết
methanol từ hạt cần tây làm giảm đáng kể viêm nhiễm (giảm nitric oxid, giảm
ESR), dịch chiết ete dầu hỏa có tác dụng mạnh hơn dịch chiết methanol [44].
1.3.3. Tác dụng hạ acid uric huyết thanh
Dịch chiết ether dầu hỏa, dịch chiết methanol từ hạt Cần tây có tác dụng
hạ acid uric huyết thanh. Nghiên cứu được thực hiện trên 4 lô chuột, mỗi lô
gồm 6 chuột cống trắng trọng lượng 150 + 6,049 g. 3 lô được tiêm màng bụng
kali oxonat liều 250 mg/kg. Một giờ sau, trong 3 lô đã tiêm kali oxanat, 1 lô
được uống dịch chiết ete dầu hỏa từ hạt Cần tây liều 500 mg/kg, 1 lô được
uống dịch chiết methanol từ hạt Cần tây liều 500 mg/kg. Sau 3h và 6 h, lấy
máu từ tĩnh mạch mắt chuột để định lượng acid uric huyết thanh [44].
Kết quả: Lô uống dịch chiết ete dầu hỏa, acid uric huyết thanh giảm
41% sau 3h, giảm 44% sau 6h so với lô chứng. Lô uống dịch chiết methanol,
acid uric huyết thanh giảm 38% sau 3h, giảm 31% sau 6h so với lô chứng.
Dựa vào các kết quả trên ta thấy, dịch chiết ete dầu hỏa và dịch chiết
methanol từ hạt cần tây có tác dụng hạ acid uric huyết thanh, dịch chiết ete
dầu hỏa có tác dụng mạnh hơn dịch chiết methanol [44].
1.3.4. Tác dụng giải độc
Dịch chiết nước từ rễ, lá và hạt cây Cần tây có tác dụng làm giảm độc
tính của Acrylamid. Ngiên cứu được thực hiện trên 6 lô chuột, mỗi lô gồm 5
chuột cống trắng 3 tháng tuổi có cân nặng trung bình là 221,4 g để so sánh các
dịch chiết với lô chứng và lô trắng. Tác dụng này được đánh giá qua các
thông số: thông số hủy tế bào gan (ASAT, ALAT, lactat dehydrogenase),
thông số tổng hợp protein (cholinesterase, protein toàn phần, albumins). Kết

TJG9g9MR8rb69Yt
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status