Nêu 3 vụ án về thế chấp tài sản - pdf 27

A. Đặt vấn đề.
Việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự trước hết la dựa vào sự tự giác
của các bên, nhưng trong thực tế, không phải bất cứ ai khi tham gia gaio dịch đều
có thiện chí trong việc thực hiện các nghĩa vụ của mình. Để tránh tình trạng đó xảy
ra, pháp luật cho phép các bên có thể thảo thuận đặt ra các biện pháp bảo đảm việc
giao kết hợp đồng cũng như việc thực hiện các nghĩa vụ dân sự. Một trong những
biện pháp bảo đảm đó là thế chấp. Cũng giống như các biện pháp bảo đảm khác,
thế chấp cũng có những ưu, nhược điểm riêng. Trên thực tế, việc không hiểu rõ
biện pháp này xảy ra rất nhiều và chúng đã gây ra những hậu quả, những tranh chấp
không đáng có. Bài viết dưới đây sẽ giúp làm sang tỏ biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự này.
B. Giải quyết vấn đề.
I. Những vấn đề chung của biện pháp thế chấp tài sản.
1. Khái niệm.
Điều 432, BLDS quy định: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên
thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản
đó cho bên nhận thế chấp. Hiểu một cách đơn giản thì biện pháp thế chấp được
hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên thế chấp cam kết dùng tài sản của
mình thông qua việc chuyển giao toàn bộ hồ sơ pháp lý của tài sản cho bên nhận
thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự mà không phải chuyển giao bản
thân tài sản thế chấp.
Trong một thời gian dài, thế chấp được lựa chọn làm biện pháp bảo đảm của hầu
hết các giao dịch dân sự, đặc biệt là trong quan hệ tín chấp. Nếu như trong biện
pháp cầm cố tài sản, bên có nghĩa vụ phải giao tài sản cho bên có quyền thì trong
quan hệ thế chấp, bên bảo đảm chỉ “dùng tài sản để bảo đảm” mà “không chuyển
giao tài sản đó” cho bên có quyền. Như thế, chủ sở hữu vẫn được sử dụng tài sản
của mình mà nghĩa vụ dân sự vẫn được bảo đảm thực hiện. Chính vì ưu điểm như
vậy nên thế chấp là một trong những biện pháp hàng đầu khi chọn biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
2. Đặc điểm pháp lý của biện pháp thế chấp.
- Không có sự chuyển giao tài sản thế chấp. Trong quan hệ thế chấp, bên thế
chấp không phải giao tài sản đảm bảo cho bên nhận thế chấp. Tính chất bảo đảm
được xác định bằng việc bên thế chấp sẽ phải giao cho bên nhận thế chấp những
giấy tờ chứng minh tình trạng pháp lý của tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp.
Như vậy, khác với biện pháp cầm cố, trong quan hệ thế chấp các bên giảm thiểu
được những thủ tục, công việc liên quan đến việc chuyển giao trực tiếp tài sản từ
1
chủ thể này sang chủ thể khác. Các loại giấy tờ liên quan phải là bản gốc (bản duy
nhất) được giao cho bên nhận thế chấp giữ.
- Biện pháp thế chấp đáp ứng linh hoạt lợi ích của các bên chủ thể. Đối với bên
nhận thế chấp: bên nhận thế chấp không phải giữ gìn và bảo quản tài sản bảo đảm
trong thời gian thế chấp như không phải lo về kho, bến bãi, người trông coi hay các
biện pháp bảo quản thích hợp cũng như không phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại nếu làm hư hỏng, mất tài sản. Đối với bên thế chấp: bên thế chấp vẫn được
tiếp tục sử dụng, khai thác công dụng của tài sản thế chấp và khả năng thu được lợi
nhuận để thực hiện đúng, đầy đủ đối với bên nhận thế chấp có tính khả thi cao hơn.
Tuy nhiên, biện pháp thế chấp vẫn ẩn chứa những rủi ro cho bên nhận thế chấp
cao hơn so với bên nhận cầm cố. Thứ nhất, đó là việc xác định tính xác thực của
các giấy tờ thế chấp. Thực tế đã chứng minh có rất nhiều bất cập xoay quanh vấn
đề giấy tờ thế chấp như trường hợp: một tài sản thế chấp nhưng lại lập nhiều hồ sơ
khác nhau để xin vay tiền của các ngân hàng khác nhau. Việc làm giả giấy đăng ký
ô tô, xe máy, giấy chứng nhận quyền sử dụng một cách phổ biến và tinh vi đến nỗi
nếu không thẩm tra cụ thể tài sản trên thực tế thì bên nhận thế chấp rất khó phát
hiện ra. Thứ hai, việc giữ gìn tài sản thế chấp lại thuộc về bên có nghĩa vụ và họ có
quyền khai thác, sử dụng tài sản thế chấp nếu khác nếu không có thỏa thuận khác.
Như vậy, rất dễ xảy ra hiện tượng: bên thế chấp tìm cách bán tài sản thế chấp cho
người khác trong thời gian thế chấp mà bên nhận thế chấp không được biết hay bên
thế chấp lạm dụng quyền khai thác tài sản thế chấp dẫn đến tài sản đó bị hư hỏng,
giảm sút giá trị... Tất cả đều dẫn đến khả năng không bảo đảm được quyền của bên
nhận thế chấp.
- Tài sản thế chấp thường có sự thay đổi trong thời hạn thế chấp và dẫn đến việc
xung đột về lợi ích giữa bên nhận thế chấp với những người khác có liên quan đến
tài sản thế chấp. Có thể đó là sự thay đổi về chủ thể như: bên thế chấp cho thuê tài
sản thế chấp; bên thế chấp bán tài sản thế chấp hàng hóa luân chuyển trong quá
trình sản xuất kinh doanh; có thể là sự thay đổi về giá trị như tài sản thế chấp được
mua bảo hiểm và sự kiện bảo hiểm đã xảy ra, có thể là sự thay đổi về trạng thái như
tài sản thế chấp là tài sản được hình thành trong tương lai; Tài sản thế chấp được
đầu tư thêm để tăng thêm giá trị.
3. Chủ thể của thế chấp tài sản.
Trong quan hệ thế chấp tài sản, bên có nghĩa vụ phải dùng tài sản để bảo đảm
cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình được gọi là bên bảo đảm hay bên thế chấp.
Ngược lại, bên có quyền được gọi là bên được bảo đảm hay bên nhận thế chấp. Chủ
thể của thế chấp tài sản phải có đầy đủ các điều kiện mà pháp luật đã quy định đối
với người tham gia giao dịch nói chung.
4. Đối tượng của thế chấp.
* Tài sản thế chấp là bất động sản thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp.
2
Theo khoản 1 điều 174 BLDS thì bất động sản bao gồm: đất đai, nhà, công trình
xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây
dựng đó, các tài sản khác gắn liền với đất đai và các tài sản mà pháp luật quy định
là bất động sản. Những tài sản này có giấy chứng nhận quyền sở hữu, đối với
quyền sử dụng đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tùy từng trường hợp, các bên có thể thỏa thuận dùng toàn bộ hay một phần bất
động sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Nếu người có nghĩa vụ dung toàn bộ một bất
động sản để thế chấp, thì các vật phụ của bất động sản cũng thuộc tài sản thế chấp.
Khi đối tượng thế chấp là một tài sản được bảo hiểm, thì khoản tiền bảo đảm cũng
thuộc tài sản thế chấp. Hoa lợi, lợi tức và các quyền phát sinh từ bất động sảm thế
chấp chỉ thuộc tài sản thế chấp khi các bên có thỏa thuận khác hay trong trường
pháp luật có quy định.
Đối với những bất động sản có đăng ký quyền sở hữu, người có nghĩa vụ có thể
dung một bất động sản để thế chấp nhiều nghĩa vụ dân sự khác nhau nhiều nghĩa vụ
dân sự khác nhau nếu tài sản đó có giá trị lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được
bảo đảm.
* Đối tượng là động sản.
Bên thế chấp có thể dùng toàn bộ hay một phần tài sản là động sản thuộc sở
hữu của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Trong trường hợp bên
thế chấp đã dùng toàn bộ một tài sản là động sản để thế chấp mà động sản đó có cả
vật chính, vật phụ thì vật chính, vật phụ đều là đối tượng của thế chấp. Nếu bên thế
chấp chỉ dùng một vật chính hay chỉ dùng vật phụ của một tài sản để thế chấp thì
đối tượng của thế chấp chỉ là phần tài sản đã được xác định.
* Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất.
Quyền bất động sản là các quyền năng đối với bất động sản. Theo quy định của
pháp luật nước ta, cá nhân không có quyền sở hữu đối với đất đai, nhưng có quyền
sử dụng đất và họ được dùng quyền sử dụng đất để thế chấp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ.
* Tài sản thế chấp là tài sản sẽ hình thành trong tương lai.
Theo quy định tại khoản 1 điều 342 BLDS thì ngoài việc dùng các tài sản hiện
có để thế chấp, bên có nghĩa vụ còn được dùng các tài sản sẽ hình thành trong
tương lai để thế chấp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
4. Hình thức thế chấp tài sản.
Việc thế chấp phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc
ghi trong hợp đồng chính. Nếu việc thế chấp được ghi trong hợp đồng chính, thì
những điều khoản về thế chấp là những điều khoản cấu thành của hợp đồng chính.
Nếu việc thế chấp được lập thành văn bản riêng, thì được coi là một hợp đồng phụ
bên cạnh hợp đồng chính, hiệu lực của nó hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu lực của
hợp đồng chính. Vì vậy, nội dung của văn bản thế chấp được lập riêng phải phù
hợp với hợp đồng chính. Văn bản thế chấp phải có chứng nhận của Công chứng
3
nhà nước hay chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền nếu pháp luật
có quy định. Việc chứng nhận, chứng thực tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý
nhà nước một cách chặt chẽ hơn đối với việc chuyển giao các bất động sản. Nếu bất
động đó được dùng thế chấp để bảo đảm nhiều nghĩa vụ, thì mỗi một lần thế chấp
phải được lập thành một văn bản riêng.
5. Quyền và nghĩa vụ của các bên.
a, Nghĩa vụ của bên thế chấp và bên nhận thế chấp.
* Bên thế chấp.
- Bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp, phải dừng việc khai thác nếu có nguy cơ
làm cho tài sản thế chấp bị hư hỏng, giảm sút giá trị.
- Thông báo cho bên nhận thế chấp về các quyền của người thứ ba đối với tài sản
thế chấp, nếu có.
- Không được bán; trao đổi, tặng cho, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác
hay pháp luật có quy định khác.
* Bên nhận thế chấp.
- Nghĩa vụ phải hoàn trả cho bên thế chấp giấy tờ về tài sản thế chấp khi chấm
dứt thế chấp.
- Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm xóa đăng
ký nếu có.
b, Quyền của bên thế chấp và bên nhận thế chấp.
* Bên thế chấp.
- Được khai thác công dụng, hướng hoa lợi, lợi tức từ tài sản thế chấp, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác.
- Được đầu từ để làm tăng giá trị của tài sản thế chấp.
- Được bán, thay thế tài sản thế chấp là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Khi đó quyền yêu cầu bên mua thanh toán, số tiền thu được trở
thành tài sản thế chấp thay cho số tài sản đã bán.
- Được cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp nhưng phải thông báo cho các bên
liên quan biết;
- Được nhận lại tài sản thế chấp từ người thứ ba giữ khi chấm dứt thế chấp hoặc
thế chấp được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
* Bên nhận thế chấp.
- Yêu cầu bên thuê, bên mượn tài sản thế chấp phải chấm dứt việc sử dụng tài
sản thế chấp nếu việc sử dụng làm mất hay giảm sút giá trị tài sản đó;
- Được xem xét, kiểm tra trực tiếp tài sản thế chấp nhưng không được cản trở
hay gây khó khăn cho việc khai thác sử dụng tài sản thế chấp;
- Yêu cầu bên thế chấp phải cung cấp thông tin về thực trạng tài sản thế chấp;
- Yêu cầu bên thế chấp áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn giá trị của tài
sản;
4
- Được quyền yêu cầu chuyển giao tài sản thế chấp để xử lý khi đến hạn mà có
sự vi phạm nghĩa vụ;
- Giám sát, kiểm tra quá trình tài sản thế chấp hình thành trong tương lai;
- Yêu cầu xử lý tài sản thế chấp và được ưu tiên thanh toán theo quy định của
pháp luật.
6. Xử lý tài sản thế chấp và chấm dứt quan hệ thế chấp.
* Xử lý tài sản thế chấp.
- Các trường hợp xử lý:
+ Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên thế chấp không thực hiện
hay thực hiện không đúng nghĩa vụ.
+ Bên thế chấp phải thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo
thỏa thuận hay theo quy định của pháp luật.
+ Pháp luật quy định tài sản thế chấp phải được xử lý để bên thế chấp thực hiện
nghĩa vụ khác.
- Các cách xử lý.
+ cách xử lý tài sản thế chấp trước hết căn cứ vào sự thỏa thuận của các
chủ thể như: bán tài sản bảo đảm; bên chận thế chấp nhận chính tài sản thế chấp để
thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp; bên nhận thế chấp nhận các
khoản tiền hay tài sản từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợi;
các quyền yêu cầu khác phát sinh từ hợp đồng;
+ Nếu các bên không thỏa thuận được thì tài sản thế chấp được bán đấu giá theo
quy định của pháp luật.
- Thanh toán tiền bán tài sản thế chấp: tiền bán tài sản thế chấp được thanh toán
bao gồm các khoản theo thứ tự như sau:
+ Chi phí bảo quản, bán tài sản và các chi phí cần thiết khác có liên quan.
+ Nếu nghĩa vụ là 1 khoản vay thì sẽ thanh toán tiền gốc, lãi, tiền phạt, tiền bồi
thường thiệt hại nếu có.
+ Nếu tiền bán tài sản còn thừa thì phải hoàn lại cho bên thế chấp;
+ Nếu tiền bán không đủ để thanh toán thì bên thế chấp phải trả nốt phần còn
thiếu đó.
* Tính chất: Phải có sự chuyển giao tài sản thế chấp từ bên thế chấp sang bên
nhận thế chấp khi phải xử lý. Đây là điểm khác biệt giữa cầm cố và thế chấp. Việc
chuyển giao tài sản cầm cố thông thường được thiết lập đồng thời với việc hình
thành quan hệ nghĩa vụ; đôi khi việc chuyển giao này được coi như là một điều
kiện để bên có nghĩa vụ được nhận một lợi ích từ bên có quyền chuyển giao. Do
vậy, việc chuyển giao tài sản cầm cố được thực hiện một cách thiện chí và chủ
động từ bên cầm cố. Nhưng việc chuyển giao tài sản thế chấp lại hoàn toàn khác.
Thời điểm chuyển giao tài sản được thực hiện khi bên có nghĩa vụ đã được nhận lợi
ích từ bên có quyền và thời điểm này có sự vi phạm nghĩa vụ của bên thế chấp.
Tính chất thiện chí và chủ động rất ít từ bên thế chấp mà trong một số trường hợp
5
bên thế chấp cố tình trì hoãn hay tìm cách trốn tránh không thực hiện việc chuyển
giao tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp để xử lý. Lúc này cần có các biện
pháp tác động mang tính cưỡng chế thông qua các thủ tục tư pháp bắt buộc như:
khởi kiện ra tòa; yêu cầu thi hành án.
Xử lý quyền sử dụng đất được thế chấp theo thỏa thuận của các bên; nếu không
có thỏa thuận hay không được xử lý theo thỏa thuận thì bên nhận thế chấp có
quyền khởi kiện ra tòa án;
Trong trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền
sử dụng đất thì khi xử lý tài sản gắn liền với đất, người mua, người nhận chính tài
sản gắn liền với đất đó được tiếp tục sử dụng đất. Quyền và nghĩa vụ của bên thế
chấp trong hợp đồng về quyền sử dụng đất giữa bên thế chấp và người sử dụng đất
được chuyển giao cho người mua, người nhận chính tài sản gắn liền với đất, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.
* Chấm dứt thế chấp:
Quan hệ thế chấp được chấm dứt khi nghĩa vụ được bảo đảm; quan hệ thế chấp
được thay thế hay được hủy bỏ bằng biện pháp khác; tài sản thế chấp đã được xử
lý hay biện pháp thế chấp đươc chấm dứt theo thỏa thuận của các bên.
II. Tóm tắt và nhận xét về các vụ án.
1. Vụ án thứ nhất.
Bà Nguyễn Thị Lan ngụ trú tại thành phố Vũng Tàu là chủ sở hữu 3 tàu đánh cá
(số hiệu: BV-9244-TS, BV-9342-TS, BV5741-TS) và đã thế chấp cho Ngân hàng
Công thương Việt Nam (NHCT) Chi nhánh tại Bà Rịa - Vũng Tàu (cho 3 hợp đồng
tín dụng (HĐTD) với tổng nợ gốc 2.250 triệu đồng, thời hạn vay 12 tháng và 60
tháng) theo các hợp đồng thế chấp số 0612.0278 ngày 24/11/2006, số 0612.0299
ngày 28/12/2006 và số 0744.0003 ngày 10/1/2007 (các hợp đồng thế chấp đã được
công chứng và được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Trung tâm đăng ký giao dịch
bảo đảm tại TP.Hồ Chí Minh).
Trong tháng 4/2007, Nguyễn Thị Lan cùng 4 đồng phạm khác dùng tàu trên đi
biển để cắt cáp viễn thông, khi bị khởi tố hình sự cơ quan điều tra đã kê biên và
giao 3 tàu cá cho gia đình Lan quản lý.
a. Cách giải quyết của Tòa án:
* Phiên xét xử của Tòa án sơ thẩm:
Tại bản án sơ thẩm số 83/2008/HS-ST ngày 4/4/2008, Tòa án tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu đã tuyên: Nguyễn Thị Lan và các đồng phạm khác phạm tội “phá hủy
công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia”, với các mức án tù từ 3
năm đến 12 năm tù;
xét thấy: trước khi bị cáo này sử dụng làm phương tiện phạm tội thì 3 tàu này đã
được thế chấp đã giao cho ngân hàng nên bản án đã giao cho NHCT Chi nhánh bà
rịa vũng tàu cùng thi hành bản án này và gia đình bà Lan thanh lý trước thời hạn 3
HĐTD, xử lý 3 tài sản bảo đảm để thu hồi nợ vay, phần giá trị còn lại nếu có tịch
6
thu sung quỹ nhà nước. Ngày 18/04/2008, Viện Kiểm Sát Nhân Dân(VKSND)
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã có kháng cáo nghị số 210/VKS đề nghị Tòa án Phúc
thẩm căn cứ Điều 41 Bộ Luật Hình Sự (BLHS) tuyên xử lý thu 3 chiếc tàu để sung
sung quỹ nhà nước (các bị cáo cũng có kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt).
Phiên xét xử tại Tòa án phúc thẩm :
*Tại phiên tòa phúc thẩm: ngày 19/9/2009, thay mặt VKSND tối cao giữ
nguyên kháng nghị về việc xử lý tịch thu 3 chiếc tàu là vật chứng với nhận định:
mặc dù 3 tàu cá là thế chấp hợp lệ nhưng không làm mất đi quyền sở hữu của bà
Lan nên vẫn đủ điều kiện tịch thu. Phán quyết này đã đẩy các khoản nợ vay có bảo
đảm hợp pháp của Lan tại ngân hàng trở thành các khoản nợ không có bảo đảm,
giao dịch trên thực tế cũng trở thành vô nghĩa. Và không ai khác, chính ngân hàng
– người đã làm tất cả những việc mà luật quy định phải làm giờ phải là người gánh
chịu một tình huống rủi ro vốn không hề lường định.
b. Cách giải quyết của nhóm chúng tôi:
Theo nhóm chúng tui thì chúng tui không đồng ý với cách giải quyết của Tòa án
sơ thẩm và phúc thẩm.
Bởi lẽ, Việc cấp tín dụng và xác lập các giao dịch bảo đảm tiền vay là quyền và
nghĩa vụ trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng (điều 49 và điều 52
Luật các tổ chức tín dụng). Hiển nhiên các giao dịch giữa Chi nhánh NHCT Chi
nhánh Bà Rịa – Vũng Tàu với bà Nguyễn Thị Lan một khi đã tiến hành hoàn toàn
hợp lệ, ngay tình, thủ tục hoàn toàn hợp pháp, thì phải có hiệu lực pháp lý được
pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Khoản 3 Điều 323 BLDS năm 2005 quy định: giao
dịch bảo đảm được đăng ký thì có giá trị pháp lý đối với người thứ ba; Nghị định
163/2006 NĐ-CP ngày 29/12/2006 do Chính phủ ban hành quy định chi tiết một số
điều của Bộ luật dân sự về việc xác lập, thực hiện giao dịch bảo đảm để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự và xử lý tài sản bảo đảm cũng đề cập đến vấn đề này.
Tuy bà Lan cũng phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng theo nhóm chúng tui thì bà
cũng phải chịu trách nhiệm dân sự nữa chứ không như quyết định của Tòa án sơ
thẩm và phúc thẩm được. Việc ngân hàng bỗng nhiên bị tước mất quyền trong
trường hợp trên cần được xem xét thấu đáo hợp lý vì theo Điều 348 BLDS năm
2005 đã quy định nghĩa vụ của bên thế chấp tài sản như sau:
“1. Bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp;...” nhưng bên có nghĩa vụ đã không thực
hiện đúng nghĩa vụ của mình. Và theo quy định của Điều 351 quy định về quyền
của bên nhận thế chấp như sau: “1. Yêu cầu bên thuê, bên mượn tài sản thế chấp
trong trường hợp quy định tại khoản 5 Điều 349 của bộ luật này phải chấm dứt
việc sử dụng tài sản thế chấp, nếu việc sử dụng làm mất giá trị hay giảm sút giá
trị của tài sản đó;
2. Được xem xét, kiểm tra trực tiếp tài sản thế chấp, nhưng không được cản trở
hay gây khó khăn cho việc sử dụng, khai thác tài sản thế chấp;...”. Như vậy qua
những quy định trên của BLDS thì chúng ta cũng có thể thấy bên có nghĩa vụ
7
không được mang tài sản đã thế chấp đi tham gia các giao dịch khác và bên có
quyền thì có những quyền cũng không nhỏ vừa trực tiếp vừa gián tiếp: trực tiếp
xem xét và kiểm tra tài sản thế chấp; còn gián tiếp yêu cầu xử lý tài sản...
Theo nhóm chúng tui về vụ việc này nên giải quyết như sau: Về trách nhiệm
hình sự thì Bà Nguyễn Thị Lan và đồng bọn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội “phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia”, với các mức
án tù từ 3 năm đến 12 năm tù. Còn việc 3 chiếc tàu sẽ giải quyết theo hậu quả pháp
lý dân sự: 3 chiếc tàu của bà Lan sẽ xử lý theo cách bán đấu giá để thực
hiện nghĩa vụ dân sự đối với NHCT chi nhánh Bà Rịa – Vũng Tàu, sau khi xử lý
xong nếu tài sản đó còn dư sau khi thanh toán cac nghĩa vụ dân sự thì có thể xung
quỹ Nhà nước.
Cách thứ 2, vì 3 chiếc tàu là tang vật gây án nên theo luật Tố tụng hình sự thì phải
tịch thu và sung công quỹ nhưng làm như vậy không đảm bảo được lợi ích của bên
nhận thế chấp là NHCT. Vì vậy, muốn bảo vệ lợi ích của NHCT thì ta có thể lưu ý
đến một biện pháp: các bên thỏa thuận với nhau để thay đổi biện pháp thế chấp
bằng một biện pháp bảo đảm khác (khoản 2 điều 357 về chấm dứt thế chấp tài sản).
2. Vụ án thứ hai.
Ngày 27/4/2010, tại trụ sở tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm
công khai vụ án thụ lí số 54/2010/TLPT – DS ngày 29/3/2010 về việc “tranh chấp
đòi tài sản”. Do bản án sơ thẩm dân sự số 01/2010/DS-ST ngày 03/2010 của tòa án
nhân dân quận Đống Đa bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án xét xử phúc thẩm số 210/2010/QĐXX- PT ngày
20/04/2010 giữa các đương sự.
Nguyên đơn: Anh Đỗ Quang Huy – sinh năm 1971; HKTT: số 412, tổ 12B,
phường Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Lan Oanh – sinh năm 1954; trú tại: số 34, ngõ 232 phố
Tôn Đức Thâng, quận Đống Đa, Hà Nội.
Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Lê Minh Phương –sinh năm 1970; HKTT: số 412, tổ 12B, phường Láng
Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội.
2. Anh Trịnh Khắc Trung – sinh năm 1977; HKTT: số 34, ngõ 232 phố Tôn
Đức Thâng, quận Đống Đa, Hà Nội.
Anh Trịnh Khắc Trung (con trai của bà Nguyễn Thị Lan Oanh) làm kinh doanh
cầm đồ, khi có khách đem tài sản đến cầm đồ tại cửa hàng của mình. Vì không có
tiền trả cho khách hàng, anh Trung đã đem tài sản của mình thế chấp cho anh Huy
để lấy tiền. Quá trình này anh Trung đã đem thế chấp một số tài sản của mình gồm:
giấy tờ xe của một xe SH và một xe Jupiter. Sau đó bà Oanh đã điện thoại cho anh
Huy nói rằng: cho anh Trung lấy lại tài sản đã thế chấp, nếu sau này anh Trung
không thanh toán được thì bà Oanh sẽ thanh toán cho anh Trung, nên anh Huy đã
giao lại cho anh Trung những giấy tờ mà anh Trung đã thế chấp, đến nay giấy tờ
8
bàn giao cũng không còn. Sau khi anh Trung không còn kinh doanh cầm đồ nữa,
hai người đã thống nhất số tiền mà anh Trung còn nợ anh Huy là 120.000.000đồng.
Số tiền này được xác định là tài sản chung của anh Huy và vợ anh là chị Lê Minh
Phương.
Do anh Trung không có khả năng chi trả nên bà Oanh nhận trách nhiệm thanh
toán cho anh Trung, bà Oanh đã nhận viết và kí giấy biên nhận vay số tiền
120.000.000 đồng, hẹn đến ngày 01/01/2007 thanh toán nợ. Theo lời bà Oanh thì
nội dung giấy biên nhận là do anh Huy đọc cho bà viết, trong tình trạng tinh thần
minh mẫn, không bị ai đánh đập, ép buộc gì nhưng bà cho rằng bà bị anh Huy lừa
dối.
Sau nhiều lần đòi nợ nhưng bà Oanh không trả, anh Huy đã gửi đơn tố cáo đến
cơ quan công an thành phố Hà Nội, tại đây hai bên đã có quá trình giải quyết tranh
chấp, bà Oanh đã thừa nhận không nhận một đồng tiền nào từ tay anh Huy và bà
chỉ viết giấy vay tiền do con bà là anh Trung nợ tiền anh Huy nên bà viết để đảm
bảo cho việc thanh toán nợ nần sau này. Bà Oanh còn trình bày rằng đã đưa cho chị
Phương là vợ anh Huy 90.000.000 đồng để lấy lại giấy tờ xe SH, việc giao nhận
không có giấy tờ gì (hai vợ chồng anh Huy và chị Phương đều phủ nhận điều này).
Về người có quyền và nghĩa vụ liên quan: anh Trung trình bày là khi bà Oanh
viết giấy biên nhận thì coi như mẹ anh đứng ra bảo lãnh và anh sẽ có trách nhiệm
trả dần cho anh Huy. Nhưng từ khi viết giâý biên nhận anh chưa trả được đồng nào.
Chị Phương thì đồng ý với mọi ý kiến và lời khai của chồng mình.
Anh Huy đã nộp đơn khởi kiện đề nghị tòa án giải quyết buộc bà Oanh phải trả
cho vợ chồng anh 120.000.000 đồng không lãi suất. không đồng ý với bản án, ngày
9/2/2010 bà Oanh kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
a, Nội dung giải quyết của Tòa án.
* Bản án sơ thẩm.
Chấp nhận yêu cầu đòi tài sản của anh Đỗ Quang Huy đối với bà Nguyễn Thị
Lan Oanh.
Xác định số tiền anh Trịnh Khắc Trung còn nợ anh Đỗ Quang Huy, chị Lê
Minh Phương số tiền 120.000.000 đồng. Bà Oanh có nghĩa vụ thanh toán cho anh
Huy, chị Phương số tiền trên. Về nghĩa vụ hoàn trả của anh Trịnh Khắc Trung cho
bà Nguyễn Thị Lan Oanh được giải quyết khi bà Oanh có yêu cầu.
Ghi nhận sự tự nguyện của anh Huy, không yêu cầu bà Oanh thanh toán tiền lãi
chậm trả số tiền trên.
* Bản án phúc thẩm.
Xét yêu cầu kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm của bà Nguyễn Thị Lan Anh,
Hội đồng xét xử nhận thấy bà Oanh kháng cáo là không đồng ý thanh toán
120.000.000 đồng cho anh Đỗ Quang Huy theo giấy biên nhận. Bà Oanh cho rằng,
giấy biên nhận là do anh Huy bảo bà viết, bà không biết gì cả, bà không nợ tiền anh
Huy nên không có trách nhiệm thanh toán số tiền đó. Tuy nhiên, theo tài liệu do cơ
9
quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội cung cấp thì tại biên bản ghi lời
khai ngày 4/9/2008 và 8/9/2008 anh Trung xác nhận sau một thời gian kinh doanh
anh Trung đã nợ anh Huy số tiền là 120.000.000 đồng. Tại biên bản ghi lời khai bà
Oanh cũng đã xác nhận rằng bà đã viết giấy vay tiền anh Huy là do anh Trung con
trai bà nợ tiền anh Huy nên bà viết giấy để đảm bảo cho việc thanh toán nợ nần sau
này. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trên, tòa án cấp sơ thẩm xác định anh Trung
nợ anh Huy 120.000.000 đồng và bà Oanh đã viết giấy nợ để đảm bảo cho việc trả
nợ đối với anh Huy nên bà Oanh phải có nghĩa vụ thanh toán tiền cho anh Huy là
phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó Hội đồng xét xử không có cơ sở để
chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Oanh và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Các bên có nghĩa vụ nộp án phí theo quy định của pháp luật.
b, Nhận xét của nhóm :
Nhóm chúng tui đồng ý với cách giải quyết của Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc
thẩm.
Trong vu án trên, về cơ bản tòa án đã giải quyết được vấn đề cốt lõi của vụ án
là việc bà Nguyễn Thị Lan Oanh phải có nghĩa vụ thanh toán cho anh Đỗ Quang
Huy và chị Lê Thị Minh Phương số tiền 120.000.000 đồng . Vì cả anh Trung và
anh Huy đều xác nhận rằng: trong thời gian kinh doanh anh Trung đã nợ anh Huy
số tiền là 120.000.000 đồng. Tại biên bản ghi lời khai bà Oanh cũng đã xác nhận
rằng bà đã viết giấy vay tiền anh Huy là do anh Trung con trai bà nợ tiền anh Huy
nên bà viết giấy để đảm bảo cho việc thanh toán nợ nần sau này. Với việc bà Oanh
viết giấy để đảm bảo cho việc thanh toán toàn bộ số nợ của anh Trung thì bà Oanh
đã bảo lãnh cho con trai mình và tự nguyện trả nợ thay cho anh Trung (theo quy
định tại điều 361 BLDS về bảo lãnh). Trong trường hợp bà Oanh không thực hiện
nghĩa vụ trả nợ thay cho anh Trung cho anh Huy thì bà Oanh phải đưa tài sản thuộc
sở hữu của mình cho anh Huy (điều 369 BLDS về xử lý tài sản của bên bảo lãnh).
Nên hội đồng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm giải quyết như vậy là phù hợp.
Tuy nhiên, một số tình tiết trong vụ án Tòa cũng chưa xác minh lại rõ ràng,
nhất là việc bà Nguyễn Thị Lan Oanh khai rằng “để anh Trung lấy lại hai tài sản đã
thế chấp cho anh Huy, bà đã trực tiếp đưa cho chị Lê Thị Minh Phương (vợ của anh
Huy) 90.000.000 đồng. Việc giao nhận tiền giữa bà Oanh và chị Lê Thị Minh
Phương không có giấy tờ gì”
Trong khi đó, anh Đỗ Quang Huy đã khẳng định không có việc bà Oanh đã giao
cho chị Phương số tiền 90.000.000 đồng như bà Oanh khai và mọi tài liệu, chứng
cứ liên quan đến việc kiện đòi tài sản vợ chồng anh đã nộp hết cho Tòa án, không
còn lưu giữ tài liệu, chứng cứ nào khác”.
Như vậy, dựa vào hai lời khai trên có thể thấy rằng một trong hai lời khai của
bà Nguyễn Thị Lan Oanh và của anh Đỗ Quang Huy là có sự gian dối. Nhưng tại
phiên tòa và kết luận của tòa án chưa làm rõ, xác minh được sự việc trên có đúng
sự thật không, và nếu không đúng thì sẽ giải quyết ra sao?
10
3. Vụ án thứ ba.
a, Tóm tắt vụ án:
Nguyên đơn chị Quách Thị Nhật trình bày: chị và chị Thủy có quan hệ hàng
xóm, chị thủy biết chị có tiền định gửi tiết kiệm ngân hàng, chị thủy cần tiền mua ô
tô nên hỏi vay tiền chị. Ngày 18/04/2008 chị Nhật cho chị thủy vay 70 triệu đồng,
lãi suất 2%/1 triệu /1 tháng. Hai bên viết giấy, vay và chị thủy có gửi chị Nhật hai
giấy đăng kí xe máy để làm tin. Ngày 28/04/2008 chị Thủy lại hỏi vay chị Nhật tiếp
10 triệu đồng để nhập hàng lãi suất như lần trước. Sau khi vay chị Thủy trả lãi cho
chị Nhật được 2 tháng là 3.200.000 đồng thì không trả được nữa. Hàng tháng chị
phải mua hàng nhà chị thủy để trừ dần và được thêm 1.600.000 đồng nữa. Chị bảo
chị Thủy cộng sổ để hai bên chốt nợ, chị Thủy còn nợ tiền lãi là 6.400.000 đồng.
Sau khi cộng sổ chị Thủy viết giấy ngày 18/11/2008. Khi chị Thủy bán nhà, có trả
cho chị 10 triệu đồng, khi nhận tiền chị Thủy yêu cầu chị kí nhận, giấy nhận tiền
chị Thủy cầm. Sau đó chị tiếp tục đòi nhưng chị Thủy không trả được nên chị yêu
cầu chị Thủy viết giấy nợ ghi ngày 21/05/2009 trong đó chị Thủy ghi cả số tiền 10
triệu đồng đã trả chị là vào tiền gốc. Nay chị thủy còn nợ chị là 70 triệu đồng tiền
gốc và lãi từ tháng 8 /2008 đến nay. Nếu chị Thủy nhận nợ và đồng ý trả thì chị sẽ
bớt cho chị Thủy 10 triệu tiền lãi và chị sẽ trả lại cho chị Thủy 2 loại giấy tờ đăng
kí sử dụng xe máy. Nếu chị Thủy không thừa nhận thì chị đề nghị Tòa buộc chị
Thủy phải trả đủ cả gốc lẫn lãi.
Bị đơn chị Trần Thị Thanh Thủy trình bày: Đúng là có chuyện chị vay tiền của
chị Nhật nhưng chi chỉ vay 1 lần là 70 triệu đồng, còn số tiền 10 triệu là tiền lãi
chuyển sang, lãi suất thỏa thuận là 2% như chị Nhật khai. Sau khi vay chị đã trả chị
Nhật được 10 triệu đồng do chị bán hàng được và trả 30 triệu đồng cho chị bán nhà.
Các lần trả đều không có giấy tờ gì. Nay chị chỉ còn nợ chị Nhật 30 triệu tiền gốc
và lãi từ tháng 8/2008 đến nay.
b, Quyết định của Tòa án:
* Tòa án sơ thẩm.
- Quyết định của Tòa án sơ thẩm số 08/2009/DS-ST ngày 31/12/2009, Tòa án
nhân dân huyện Đan Phượng, Hà Nội, đã áp dụng các điều 471, 474, 476 Bộ luật
dân sự, điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự, điều 27 pháp lệnh án phí, lệ phí, Tòa án
xử:
Buộc chị Trần Thị Thanh Thủy phải trả chị Quách Thị Nhật số tiền là
80.500.000 đồng.
Về án phí: Chị Thủy phải chịu 4.025.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về lãi suất do chậm thi hành án, quyền
kháng cáo của đương sự.
- Ngày 03/02/2010 Viện kiểm sát nhân dân Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
có quyết định, kháng nghị số 04/QĐ/KNPT_P5 với nội dung đề nghị sửa án sơ
thẩm, về cách tuyên, phần căn cứ áp dụng tính lãi suất và án phí, cụ thế:
11
+ Về cách tuyên: án sơ thẩm không tuyên “Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
chị Nhật” là thiếu sót.
+ Về căn cứ áp dụng tính lãi suất: cấp sơ thẩm tính mức lãi suất 0,65% kể từ
tháng 11/2008 theo quyết định ngày 24/12/2009 của thống đốc ngân hàng nhà nước
Việt nam là không đúng, không có quyết định nào ngày 24/12/2009. cần bổ
sung vào bản án quyết định số 2665/QĐ-NHNN ngày 25/11/2009, theo quyết định
này,múc lãi suất cơ bản là 0,66%.
+ Vể án phí: án sơ thẩm chỉ buộc chị Thủy chịu án phí có giá ngạch 4.025.000
đồng mà không buộc chị Thủy phải chịu 200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm là
không đúng.
* Tòa án phúc thẩm.
Căn cứ vào khoản 2 điều 275, 276, 131, BLTT dân sự, pháp lệnh số
10/2009/UBTVQH 12 ngày 27/02/2009 của UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án. Áp
dụng các điều 471, 474, 476, BLDS, Tòa phúc thẩm quyết định:
+ Chấp nhận kháng nghị của Viện kiếm sát nhân dân thành phố Hà Nội. Sửa bản
án dân sự sơ thẩm số 08/2009 DSST ngày 31/12/2009 của Tòa án nhân dân huyện
Đan Phượng, cụ thể:
+ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Quách Thị Nhật. Buộc chị
Trần Thị Thanh Thủy phải trả chị Quách thị Nhật tổng số tiền là 80.500.000 đồng.
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án có đơn yêu cầu, bên
phải thi hành án phải chịu thêm khoản tiền lãi theo lãi suất cơ bản do ngân hàng
nhà nước quy định tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.
+ Về án phí: Chị Thủy phải chịu 4.025.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại
cho chị Nhật 2.200.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
c, Nhận xét của nhóm:
Nhóm chúng tui đồng ý với cách giải quyết vấn đề của Tòa án sơ thẩm và Tòa
phúc thẩm như trên. Xét tình hình cụ thể của vụ án ta thấy: giữa nguyên đơn chị
Quách Thị Nhật và bị đơn chị Trần Thị thanh Thủy có xác lập quan hệ vay tiền với
nhau. Chị Nhật khẳng đinh đã cho chị Thủy vay tổng số tiền là 80 triệu đồng, lãi
suất 2% (18/04/2008 vay 70 triệu đồng, ngày 28/04/2008 vay 10 triệu đồng). Khi
chị Thủy mới trả cho chị Nhật 10 triệu đồng tiền gốc (5/2009) và tiền lãi đến tháng
7/2008. Chị Thủy chỉ thừa nhận có vay của chị Thủy 70 triệu đồng, lãi suất 2%. Số
tiền này chị đã trả cho chị Nhật 40 triệu đồng, hiện chỉ còn nợ 30 triệu đồng tiền
gốc và lãi từ tháng 8/2008 đến nay. Chị Nhật xuất các giấy vay tiền và giấy chốt nợ
do chính tay chị Thủy viết gồm: Giấy vay tiền ngày18/04/2008, giấy vay tiền ngày
28/04/2008, giấy chốt nợ ngày 21/05/2009, giấy chốt lãi ngày 4/11/2009. Các giấy
tờ trên thể hiện quá trình vay trả như nguyên đơn trình bày là hoàn toàn đúng. Chị
thủy cho rằng chị chỉ vay 70 triệu đồng và đã trả được 40 triệu, chỉ cò nợ 30 triệu
nhưng không đưa ra được chứng cứ gì chứng minh. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm
12
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Nhật, buộc chị thủy phải trả cho chị tổng số
tiền gốc + lãi 80.500.000 đồng là có căn cứ ( theo quy định tại điều 355 BLDS về
xử lý tài sản thế chấp).
Tuy nhiên, tại phần quyết định của bản án không ghi “chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của chị Nhật” là một thiếu sót cần bổ sung. Đồng thời trong phần nhận
định, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào quyết định của thống đốc ngân hành nhà nước
VN ngày 24/12/2009 và xác định mức lãi suất cơ bản 0,65% /tháng là chưa chính
xác. Không có quyết định nào ngày 24/12/2009 mà phải căn cứ vào quyết số
2665/QĐ-NHNN ngày 25/11/2009. Theo quyết định này, mức lãi suất cơ bản là
0,66%/tháng. Song tại phiên tòa phúc thẩm thay mặt VKS cũng đồng ý với việc tính
lãi suất 1% (150 %mức lãi suất cơ bản) của cấp sơ thẩm. Đồng thời, sau khi xét xử
sơ thẩm các đương sự đều không kháng cáo, tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự
không có đề nghị nên không cần thiết sửa lại khoản tiền lãi mà cấp sơ thẩm đã tính.
Do đó cần chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, sửa cách tuyên án sơ thẩm và
rút kinh nghiệm đối với cấp sơ thẩm về việc áp dụng căn cứ tính lãi suất là hoàn
toàn đúng đắn, hợp tình, hợp lí.
C. Kết thúc vấn đề.
Trên đây chỉ là ba trong số rất nhiều vụ án tranh chấp có lien quan đến tài sản
thế chấp là động sản mà bên thế chấp vi phạm nghĩa vụ. Qua đây, ta có thể thấy
được những ưu và nhược điểm của biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản. Với biện
pháp này, bên thế chấp không giao tài sản thế chấp mà chỉ giao giấy tờ nên họ vẫn
là chủ sở hữu của chúng. Điều này tạo nên sự rủi ro rất lớn cho bên nhận thế chấp
nhất là đối với những tài sản thế chấp lại là động sản không đăng ký. Vì vậy, trên
thực tế những trường hợp áp dụng với những động sản không đăng ký là hầu như
không có. Đối với những trường hợp này, họ sẽ chuyển sang một biện pháp khác
bớt rủi ro hơn. Trong tương lai, biện pháp này cần được nghiên cứu kỹ hơn để
có thể tránh rủi ro trên.
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status