bài tập nhóm luật thương mại 1 - pdf 27

Cùng với sự chuyển đổi của nền kinh tế thị trường, các hoạt động thương
mại, kinh doanh ngày càng diễn ra phong phú và đa dạng. Các hoạt động này
có thể được thực hiện bởi một cá nhân, một tổ chức hay bởi sự liên kết, hợp
tác của các cá nhân, tổ chức với nhau, dưới nhiều loại hình, tên gọi khác
nhau. Một trong số đó có thể kể tới Công ty hợp danh_mô hình công ty tiến
hành các hoạt động thương mại xuất hiện sớm nhất trên thế giới. Để phần
nào hiểu thêm một số vấn đề cơ bản liên quan đến loại hình công ty này,
nhóm 3 xin trình bày đề tài:
“Anh, chị hãy tư vấn cho các thành viên công ty hợp danh Hồng Hà về sự
phù hợp của nội dung trong Điều lệ công ty họ so với quy định của Luật
Doanh nghiệp năm 2014. Được biết trong Điều lệc của công ty hợp danh
Hồng Hà có một số nội dung sau:

Thành viên góp vốn chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Thành viên công ty hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư
nhân hay thành viên của công ty hợp danh khác.
Thành viên hợp danh được chia lợi nhuận, chịu lỗ ngang nhau không
phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp vào công ty.
Hội đồng thành viên bao gồm tất cả các thành viên hợp danh. Mỗi
thành viên hợp danh có một phiếu biểu quyết.
Giám đốc công ty hợp danh là người duy nhất có quyền thay mặt theo
pháp luật và tổ chức điều hành công ty. Công ty hợp danh có thể thuê
giám đốc.”
NỘI DUNG
I.
1.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY HỢP DANH
Khái niệm
Công ty hợp danh là một loại hình đặc trưng của công ti đối nhân, được
thành lập trên cơ sở của sự tin cậy, tín nhiệm lẫn nhau giữa các thành viên.
Hay nói khác đi, đây là loại hình công ty mà sự liên kết các thành viên trong
công ty xem xét đến mối quan hệ giữa các thành viên tham gia là chính còn sự
hùm vốn chỉ là thứ yếu. Và công ty hợp danh cũng là một loại hình doanh
nghiệp.
Trên thế giới hiện nay có hai dạng công ty hợp danh:
1
Thứ nhất, là công ty hợp danh thông thường: loại hình công ty trong đó chỉ
có một loại thành viên là thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh cùng
tiến hành hoạt động thương mại dưới một hãng chung và cùng liên đới chịu
trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty.
Thứ hai, là công ty hợp danh hữu hạn (công ty hợp vốn đơn giản) : loại
hình công ty trong đó ngoài các thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn
còn có thể có thêm các thành viên khác (thành viên góp vốn) chịu trách nhiệm
hữu hạn về các khoản nợ của công ty.
Còn ở Việt Nam, cũng vẫn tồn tại hai loại hình công ty hợp danh như trên
thế giới đã thừa nhận, nhưng cả hai chỉ được gọi chung bằng một tên gọi là
công ty hợp danh. Do đó, trong công ty hợp danh ở Việt Nam có thể chỉ có
thành viên hợp danh, cũng có thể có thêm thành viên góp vốn tùy vào nhu cầu
và mục đích đầu tư của các tổ chức, cá nhân.
Điều 172 Luật Doanh nghiệp năm 2014 định nghĩa:
“ 1. Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau
kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh);
ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn;
b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về các nghĩa vụ của công ty;
c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.”
Đặc điểm
Về thành viên
a)
2.
a.
Công ty hợp danh phải có tối thiểu hai thành viên là cá nhân cùng tiến
hành hoạt động thương mại dưới một hãng chung và cùng chịu trách nhiệm
vô hạn và liên đới với các khoản nợ của công ty (gọi là thành viên hợp danh).
Ngoài ra, trong công ty hợp danh còn có thể có thêm các thành viên góp vốn,
chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn góp/ cam kết góp vào
công ty. Thành viên góp vốn có thể là cá nhân hay tổ chức. Nhưng không
phải mọi cá nhân, tổ chức đều có thể trở thành thành viên của công ty hợp
danh. Những cá nhân, tổ chức có thể trở thành thành viên của công ty hợp
danh phải là những cá nhân, tổ chức không thuộc các trường hợp bị hạn chế
theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
2
b.
Về trách nhiệm tài sản
Xét về trách nhiệm của công ty: Công ty hợp danh chịu trách nhiệm đối với
các khoản nợ của công ty bằng tất cả tài sản của công ty.
Xét về trách nhiệm của các thành viên công ty:
Thành viên hợp danh: phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới. Tức là họ
phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh
doanh của công ty, trách nhiệm này không thể bị giới hạn đối với bất kì thành
viên hợp danh nào.
Thành viên góp vốn: chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ trong
kinh doanh của công ty.
c.
Về tư cách pháp lí
Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng
nhận đăng kí doanh nghiệp (Khoản 2 Điều 172 Luật Doanh nghiệp năm
2014).
Ở công ty hợp danh có sự tách bạch rõ ràng giữa tài sản của công ty và tài
sản của các thành viên công ty. Các thành viên trong công ty phải làm thủ tục
chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn sang công ty và tài sản hình thành trong
quá trình công ty hoạt động là tài sản của công ty.
d.
Về khả năng huy động vốn
Không giống với các loại hình công ty khác, công ty hợp danh là loại hình
doanh nghiệp có khả năng huy động vốn rất hạn chế. Bởi lẽ, Luật Doanh
nghiệp quy định: “Công ty hợp danh không được phát hành bất kì loại chứng
khoán nào” (Khoản 3 Điều 172 Luật Doanh nghiệp năm 2014).
II.
1.
SỰ PHÙ HỢP CỦA MỘT SỐ QUY ĐỊNH TRONG ĐIỀU LỆ CỦA CÔNG TY
HỢP DANH SAO SÁNG SO VỚI LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014
Thành viên góp vốn chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty
Một trong hai loại thành viên của công ty hợp danh là thành viên góp vốn.
Thành viên góp vốn có thể là cá nhân hay tổ chức và không thuộc các trường
hợp quy định tại khoản 3 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Là thành
viên công ty hợp danh nhưng thành viên góp vốn được hưởng chế độ trách
3
nhiệm tài sản như thành viên trong công ty đối vốn, đó là chế độ trách nhiệm
hữu hạn. Trách nhiệm tài sản của thành viên góp vốn trong định nghĩa về
công ty hợp danh được quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 172: “Thành viên
góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số
vốn đã góp vào công ty”.
Như vậy, quy định trên trong điều lệ của công ty hợp danh Hồng Hà không
phải là không có căn cứ. Nhưng giới hạn trách nhiệm của thành viên góp vốn
trong công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 đang có sự mâu
thuẫn giữa quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 172 với các quy định tại Khoản
3 Điều 173 và điểm a Khoản 2 Điều 182.
Tuy nhiên, Điều 172 Luật Doanh nghiệp năm 2014 là quy định chung của
pháp luật để định nghĩa về công ty hợp danh cũng như nói chung về các
thành viên của công ty, còn đối với quyền và nghĩa vụ của từng loại thành
viên cụ thể trong công ty luật đã có sự phân định thành các quy định riêng
trong từng điều luật cụ thể. Trong đó, đối với phạm vi trách nhiệm tài sản của
thành viên góp vốn, như một trong các nghĩa vụ của thành viên này với công
ty, điểm a Khoản 2 Điều 182 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định:
“2. Thành viên góp vốn có các nghĩa vụ sau đây:
a)
Chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong
phạm vi số vốn đã cam kết góp;”
Thêm vào đó, với việc góp vốn vào công ty của các thành viên góp vốn, nếu
như có thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số
vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó đối với công ty.
Theo logic, những quy định riêng, quy định của luật chuyên ngành sẽ được
ưu tiên áp dụng trước rồi mới đến các quy định chung của pháp luật. Do đó,
nói về nghĩa vụ tài sản của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh thì dù
các thành viên này đã góp vốn bằng tiền mặt hay bằng hiện vật, dù góp đủ
một lúc hay góp dần thì họ đều phải chịu trách nhiệm tài sản đối với các
khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn mà họ đã cam kết góp chứ
không chỉ trong phạm vi phần vốn đã góp vào công ty.
4
2.
Thành viên công ty hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư
nhân hay thành viên của công ty hợp danh khác
Điều lệ của công ty hợp danh Hồng Hà quy định nội dung trên là chưa phù
hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, vì lẽ:
Khoản 1 Điều 172 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định:
“ 1. Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
a)
Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau
kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); Ngoài
các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn;”
Như vậy, thành viên công ty hợp danh bao gồm: thành viên hợp danh và
thành viên góp vốn.
Trong đó, thành viên hợp danh là các cá nhân và không thuộc các đối
tượng bị cấm thành lập và quản lí doanh nghiệp theo Điều 18 Luật Doanh
nghiệp năm 2014. Cũng theo luật này, trách nhiệm của thành viên hợp danh
trong công ty hợp danh được quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 172 Luật
Doanh nghiệp năm 2014:
“Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về các nghĩa vụ của công ty.”
Và điểm đ Khoản 2 Điều 176 Luật này:
“2. Thành viên hợp danh có các nghĩa vụ sau đây:
đ) Liên đới chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của công ty nếu
tài sản của công ty không đủ để trang trải số nợ của công ty”
Theo đó, trách nhiệm tài sản của thành viên hợp danh đối với các nghĩa vụ
của công ti là trách nhiệm vô hạn và liên đới. Có nghĩa rằng, thành viên hợp
danh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đang có hay sẽ có
trong tương lai. Nếu công ty kinh doanh thua lỗ, thành viên hợp danh phải sử
dụng các tài sản cá nhân của mình liên đới trả nợ của công ty, không kể đó là
tài sản đã đầu tư vào kinh doanh hay tài sản dân sự, chủ nợ sẽ có quyền yêu
cầu bất kì thành viên hợp danh nào thanh toán các khoản nợ của công ty đối
với chủ nợ. Nếu một thành viên hợp danh đã thực hiện nghĩa vụ trả hết các
khoản nợ của công ty thì tất cả các thành viên hợp danh khác cũng được giải
5
thoát khỏi món nợ với chủ nợ. Thành viên đã trả nợ cho công ty có quyền yêu
cầu các thành viên hợp danh khác thanh toán các khoản nợ của họ trong món
nợ chung đó.
Trách nhiệm tài sản vô hạn và liên đới này của thành viên hợp danh trong
công ty còn ràng buộc họ ngay cả khi thành viên đó đã chấm dứt tư cách
thành viên hợp danh của công ty hợp danh: “Trong thời hạn 2 năm kể từ
ngày chấm dứt tư cách thành viên hợp danh theo quy định tại điểm a và điểm
c khoản 1 Điều này thì người đó vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của công ty đã phát sinh trước ngày
chấm dứt tư cách thành viên.” (Khoản 5 Điều 180 Luật Doanh nghiệp năm
2014)
Các thành viên hợp danh là những người trực tiếp quyết định đến sự tồn
tại và phát triển của công ty hợp danh cả về mặt pháp lí lẫn thực tế. Nếu
quản lí, điều hành công ty không tốt dẫn đến công ty bị phá sản thì các thành
viên hợp danh rất dễ rơi vào tình trạng mất hết tài sản. Do đó, ngoài việc
được hưởng một số quyền quy định tại Điều 176 Luật Doanh nghiệp năm
2014 thì các thành viên này cũng chịu những sự hạn chế nhất định, quy định
tại Điều 175 Luật Doanh nghiệp năm 2014:
“1. Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc
thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự
nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại.”
Sở dĩ các thành viên này bị hạn chế làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc
thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác vì một cá nhân chỉ có một
khối tài sản duy nhất và cá nhân ấy chỉ có thể chịu trách nhiệm vô hạn một
lần, mà không thể chịu trách nhiệm vô hạn nhiều hơn một lần. Nếu một cá
nhân vừa là thành viên hợp danh của công ty hợp danh vừa là chủ doanh
nghiệp tư nhân, giả sử cả hai loại hình doanh nghiệp này đều làm ăn thua lỗ,
cá nhân đó sẽ khó có thể có đủ khối tài sản để trả hết cả hai khoản nợ cùng
một lúc, điều đó dẫn tới rủi ro trong kinh doanh rất cao.
Tuy nhiên, cũng không phải bất cứ ai đã là thành viên hợp danh của công
ty hợp danh đều không thể đồng thời là chủ doanh nghiệp tư nhân vì nếu có
sự đồng ý của các thành viên hợp danh khác trong công ty thì cá nhân đó vẫn
có thể đảm nhận hai vị trí cùng lúc : “Thành viên hợp danh không được làm
6
chủ doanh nghiệp tư nhân…………, trừ trường hợp được sự nhất trí của các
thành viên hợp danh còn lại”
Hơn nữa, Luật Doanh nghiệp chỉ quy định thành viên hợp danh không
được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hay thành viên hợp danh của công ty
hợp danh khác, mà không có quy định nào hạn chế việc thành viên hợp danh
được đồng thời là thành viên góp vốn trong công ty hợp danh khác.
Loại thành viên thứ hai trong công ty hợp danh là thành viên góp vốn (có
thể có hay không). Như đã nói ở trên, chế độ trách nhiệm đối với thành viên
này trong công ty hợp danh là chế độ trách nhiệm hữu hạn.
Từ chế độ trách nhiệm hữu hạn này thành viên góp vốn được hưởng những
thuận lợi nhất định nhưng ngược lại cũng chịu những hạn chế nhất định. Họ
bị hạn chế những quyền cơ bản của một thành viên công ty như: không được
tham gia quản lí công ty, không được hoạt động kinh doanh nhân danh công
ty.
Tuy nhiên, pháp luật lại không có quy định nào hạn chế việc thành viên góp
vốn được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hay thành viên của công ty hợp
danh khác. Vì chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong công ty nên dù thành viên
góp vốn có là chủ doanh nghiệp tư nhân hay thành viên công ty hợp danh
khác thì khối tài sản của họ cũng vẫn thỏa mãn điều kiện một khối tài sản
không thể đồng thời chịu hai lần trách nhiệm vô hạn.
Như vậy, nội dung Điều lệ của công ty hợp danh Hồng Hà quy định chung:
“Thành viên công ty hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư
nhân hay thành viên của công ty hợp danh khác” , tức là cả thành viên
hợp danh và thành viên góp vốn công ty hợp danh đều không được làm chủ
doanh nghiệp tư nhân hay thành viên của công ty hợp danh khác là chưa
phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014.
3.
Thành viên hợp danh được chia lợi nhuận, chịu lỗ ngang nhau không
phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp vào công ty
Như đã nói ở trên, thành viên hợp danh của công ty hợp danh là những
người quyết định sự tồn tại và phát triển của công ty cả về mặt pháp lý và
thực tế. Trong quá trình hoạt động, các thành viên hợp danh được hưởng
những quyền cơ bản, quan trọng của thành viên công ty đồng thời phải thực
hiện nghĩa vụ tương xứng để bảo vệ quyền lợi của công ty và những người
7
liên quan. Các quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp danh được quy định
trong luật Doanh nghiệp 2014 và điều lệ công ty.
Trong quá trình công ty hoạt động theo sự tổ chức điều hành của các thành
viên hợp danh, nếu công ty hoạt động kinh doanh tốt, có nhiều lợi nhuận thì
tất nhiên quyền lợi của các thành viên cũng được đảm bảo một cách tối ưu và
một trong các quyền lợi mà thành viên hợp danh được hưởng là: “Được chia
lợi nhuận tương ứng với tỷ lệ vốn góp hay theo thỏa thuận quy định tại Điều
lệ công ty” (Theo điểm e khoản 1 Điều 176 Luật Doanh nghiệp năm 2014).
Ngược lại, nếu họ làm việc bất cẩn khiến công ty kinh doanh thua lỗ thì họ
sẽ có nghĩa vụ “Chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp vào công ty hay theo
thỏa thuận quy định tại Điều lệ công ty trong trường hợp công ty kinh doanh
bị lỗ” (điểm e khoản 2 Điều 176).
Do đó, theo quy định chung, các thành viên hợp danh của công ty hợp danh
Hồng Hà sẽ được chia lợi nhuận và phải chịu lỗ tương ứng với tỷ lệ phần vốn
mà họ góp vào công ty. Tuy nhiên, các thành viên công ty cũng có quyền có
thỏa thuận khác về việc chia lợi nhuận và chịu lỗ của thành viên hợp danh,
thành viên hợp danh có thể “Được chia lợi nhuận….theo thỏa thuận quy định
tại Điều lệ công ty”, miễn là các thỏa thuận đó không được trái pháp luật,
không vi phạm những điều cấm và đã được các thành viên của công ty đồng ý,
chấp thuận.
Trong công ty hợp danh, thành viên hợp danh có quyền “tham gia họp,
thảo luận và biểu quyết về các vấn đề của công ty…” (điểm a Khoản 1 Điều
176 Luật Doanh nghiệp năm 2014) và thành viên góp vốn có quyền “tham gia
họp, thảo luận và biểu quyết tại Hội đồng thành viên về việc sửa đổi, bổ sung
Điều lệ công ty, sửa đổi, bổ sung các quyền và nghĩa vụ của thành viên góp
vốn, về tổ chức lại và giải thể công ty và các nội dung khác của Điều lệ công ty
có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ” (điểm a Khoản 1 Điều
182 Luật Doanh nghiệp năm 2014).
Như vậy, nội dung Điều lệ của công ty hợp danh Hồng Hà quy định việc
thành viên hợp danh được chia lợi nhuận, chịu lỗ ngang nhau không phụ
thuộc vào tỷ lệ vốn góp vào công ty sẽ là hoàn toàn phù hợp với Luật Doanh
nghiệp 2014 trong trường hợp quy định đó đã được sự đồng ý của các thành
viên công ty (bao gồm cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn (nếu
có)).
8
4.
Hội đồng thành viên bao gồm tất cả các thành viên hợp danh. Mỗi
thành viên hợp danh có một phiếu biểu quyết
Trước hết, nội dung Điều lệ của công ty hợp danh Hồng Hà quy định: Hội
đồng thành viên bao gồm tất cả các thành viên hợp danh là chưa phù hợp với
Luật Doanh nghiệp năm 2014, bởi lẽ:
Công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp có tính an toàn pháp lí đối với
công chúng cao, vì công ty chịu trách nhiệm vô hạn đối với mọi khoản nợ của
công ty. Các thành viên trong công ty này thường có mối liên hệ mật thiết, tin
tưởng lẫn nhau cho nên việc quản lí công ty cũng ít chịu sự ràng buộc của
pháp luật. Tuy nhiên, cũng như các loại hình công ty khác, công ty hợp danh
cũng cần thành lập nên một cơ quan quyền lực cao nhất, giúp công ty quyết
định các vấn đề quan trọng
Trong công ty hợp danh, cơ quan có quyền quyết định cao nhất là Hội đồng
thành viên. Nói về Hội đồng thành viên của công ty hợp danh, Điều 177 Luật
Doanh nghiệp 2014 quy định:
“1. Tất cả thành viên hợp lại thành Hội đồng thành viên. Hội đồng thành
viên bầu một thành viên hợp danh làm Chủ tịch Hội đồng thành viên, đồng
thời kiêm Giám đốc hay Tổng giám đốc công ty nếu Điều lệ công ty không có
quy định khác.
2. Thành viên hợp danh có quyền yêu cầu triệu tập họp Hội đồng thành
viên để thảo luận và quyết định công việc kinh doanh của công ty. Thành viên
yêu cầu triệu tập họp phải chuẩn bị nội dung, chương trình và tài liệu họp.
.................................
5. Quyền tham gia biểu quyết của thành viên góp vốn được thực hiện theo
quy định của Luật này và Điều lệ công ty.”
Từ quy định trên đây có thể thấy, Hội đồng thành viên của công ty hợp
danh bao gồm tất cả các thành viên(cả thành viên hợp danh và thành viên
góp vốn của công ty). Do đó, nếu chỉ nói Hội đồng thành viên của công ty hợp
danh bao gồm tất cả các thành viên hợp danh tức là phủ nhận quyền được là
tham gia vào Hội đồng thành viên của công ty của các thành viên góp vốn.
Một cuộc họp của Hội đồng thành viên khi được triệu tập, tiến hành, nội
dung cuộc họp không chỉ có liên quan đến các quyền và nghĩa vụ của chung
9
của công ty, quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp danh mà còn có những
vấn đề liên quan đến cả quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn. Luật
Doanh nghiệp năm 2014 cũng đã quy định rõ, thành viên góp vốn có quyền:
“tham gia họp, thảo luận và biểu quyết tại Hội đồng thành viên về việc sửa
đổi, bổ sung Điều lệ công ty, sửa đổi, bổ sung các quyền và nghĩa vụ của thành
viên góp vốn, về tổ chức lại và giải thể công ty và các nội dung khác của Điều
lệ công ty có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ” (điểm a Khoản
1 Điều 182 Luật Doanh nghiệp năm 2014), “Quyền tham gia biểu quyết của
thành viên góp vốn được thực hiện theo quy định của Luật này và Điều lệ
công ty” (Khoản 5 Điều 177 Luật Doanh nghiệp năm 2014).
Tuy nhiên, xét về cơ bản, trong công ty hợp danh, quyền quản lý và việc
quyết định những vấn đề trọng đại của công ty chỉ thuộc về các thành viên
hợp danh, còn thành viên góp vốn bị hạn chế những quyền cơ bản của thành
viên công ty. Mặc dù pháp luật cho phép thành viên góp vốn tham gia vào Hội
đồng thành viên của công ty hợp danh, nhưng thực chất, thực quyền không
nằm trong tay các thành viên này.
Thứ hai, nội dung của Điều lệ công ty hợp danh Hồng Hà quy định: Mỗi
thành viên hợp danh có một phiếu biểu quyết là đã phù hợp với quy định của
Luật Doanh nghiệp năm 2014, bởi lẽ:
Việc biểu quyết trong công ty hợp danh được tiến hành theo nguyên tắc đa
số. Chẳng hạn, Điều 177 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định:
“ 3. Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả công việc kinh doanh
của công ty. Nếu Điều lệ công ty không quy định thì quyết định các vấn đề sau
đây phải được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên hợp danh chấp thuận:
a) Phương hướng phát triển công ty;
b) Sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty;
c) Tiếp nhận thêm thành viên hợp danh mới;
d) Chấp nhận thành viên hợp danh rút khỏi công ty hay quyết định khai trừ
thành viên;
đ) Quyết định dự án đầu tư;
10
e) Quyết định việc vay và huy động vốn dưới hình thức khác, cho vay với
giá trị bằng hay lớn hơn 50% vốn điều lệ của công ty, trừ trường hợp Điều
lệ công ty quy định một tỷ lệ khác cao hơn;
g) Quyết định mua, bán tài sản có giá trị bằng hay lớn hơn vốn điều lệ của
công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định một tỷ lệ khác cao hơn;
h) Quyết định thông qua báo cáo tài chính hằng năm, tổng số lợi nhuận
được chia và số lợi nhuận chia cho từng thành viên;
i) Quyết định giải thể công ty.
4. Quyết định về các vấn đề khác không quy định tại khoản 3 Điều này được
thông qua nếu được ít nhất hai phần ba tổng số thành viên hợp danh tán
thành; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định.”
Và đối với quyền biểu quyết của các thành viên công ty trong các vấn đề
của công ty, Luật Doanh nghiệp năm 2014 cũng đã quy định rõ:
Điều 176:
” 1. Thành viên hợp danh có các quyền sau đây:
a)
Tham gia họp, thảo luận và biểu quyết các vấn đề của công ty; mỗi thành viên
hợp danh có một phiếu biểu quyết hay có số phiếu biểu quyết khác quy định
tại Điều lệ công ty;
.............................”
Điều 182:
”1. Thành viên góp vốn có các quyền sau đây:
a)
Tham gia họp, thảo luận và biểu quyết tại Hội đồng thành viên về việc sửa
đổi, bổ sung Điều lệ công ty, sửa đổi, bổ sung các quyền và nghĩa vụ của thành
viên góp vốn, về tổ chức lại và giải thể công ty và các nội dung khác của Điều
lệ công ty có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ;”
Như vậy, việc thành viên hợp danh có số phiếu biểu quyết là một hay có số
phiếu biểu quyết khác khi biểu quyết thông qua quyết định của Hội đồng
thành viên phụ thuộc vào việc Điều lệ của công ty có quy định khác hay
không. Đồng nghĩa là, Luật hoàn toàn cho phép công ty hợp danh có quyền
11
thỏa thuận và quy định tại Điều lệ của công ty về số phiếu biểu quyết mà
thành viên hợp danh trong công ty mình có thể có.
Có thể khẳng định lại, việc Điều lệ công ty hợp danh Hồng Hà quy định cho
mỗi thành viên hợp danh có một phiếu biểu quyết là hoàn toàn phù hợp với
quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, quy định này cũng thể hiện rất rõ
tính chất đối nhân của công ty hợp danh.
5.
Giám đốc công ty hợp danh là người duy nhất có quyền thay mặt theo
pháp luật và tổ chức điều hành công ty. Công ty hợp danh có thể thuê
giám đốc
Thứ nhất, nội dung Điều lệ công ty hợp danh Hồng Hà quy định giám đốc
công ty hợp danh là người duy nhất có quyền thay mặt theo pháp luật và tổ
chức điều hành công ty là chưa phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp
năm 2014, vì lẽ:
Người thay mặt theo pháp luật của doanh nghiệp, hay nói cách khác là
những người đứng đầu doanh nghiệp, được doanh nghiệp ủy quyền, thay mặt
doanh nghiệp thực hiện các giao dịch vì lợi ích của doanh nghiệp với đối tác,
khách hàng và với cơ quan Nhà nước. Quyền, nghĩa vụ và và chức danh của
người thay mặt theo pháp luật của doanh nghiệp được quy định trong điều lệ
doanh nghiệp, các giấy tờ giao dịch phải ghi rõ điều đó.
Với công ty hợp danh, là loại hình công ty đối nhân thường ít chịu sự quy
định ràng buộc của pháp luật. Pháp luật giành quyền rộng rãi cho các thành
viên thỏa thuận các quy định ràng buộc thành viên của công ty mình. Xét về tổ
chức, quản lí công ty hợp danh rất đơn giản. Các thành viên có thể thỏa thuận
trong hợp đồng về việc tổ chức, điều hành, thay mặt của công ty. Dựa trên sự
tin tưởng lẫn nhau, các thành viên cùng nhau hợp tác, thành lập nên công ty
hợp danh, trong đó, thành viên hợp danh là những người quyết định sự tồn
tại và phát triển của công ty. Trong quá trình công ty hoạt động, không phải
chỉ Giám đốc mới là người duy nhất có quyền thay mặt theo pháp luật và tổ
chức điều hành công ty mà quyền này là thuộc về tất cả các thành viên hợp
danh của công ty. Hơn nữa, Giám đốc công ty khi thực hiện việc quản lý và
điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty cũng phải thực hiện
với tư cách là thành viên hợp danh. Với thành viên hợp danh của công ty, mọi
hạn chế đối với họ trong việc họ thực hiện công việc kinh doanh hằng ngày
12
của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó được biết về hạn
chế đó.
Theo quy định tại Điều 137 Luật Doanh nghiệp 2005 thì các thành viên hợp
có quyền thay mặt theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh
hàng ngày của công ty hợp danh. Kế thừa quy định này của Luật Doanh
nghiệp 2005, Điều 179 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định:
“1. Các thành viên hợp danh có quyền thay mặt theo pháp luật và tổ
chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty. Mọi hạn chế
đối với thành viên hợp danh trong thực hiện công việc kinh doanh hằng ngày
của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó được biết về hạn
chế đó.”
Thứ hai, nội dung Điều lệ công ty hợp danh Hồng Hà quy định Công ty hợp
danh có thể thuê giám đốc là phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp
năm 2014:
Với công ty hợp danh, giám đốc là người có nhiệm vụ quản lí và điều hành
công việc kinh doanh hàng ngày của công ty với tư cách là thành viên hợp
danh, phân công phối hợp công việc kinh doanh giữa các thành viên hợp
danh. Đại diện cho công ty trong quan hệ với cơ quan nhà nước, thay mặt cho
công ty với tư cách là nguyên đơn hay bị đơn trong các vụ kiện, tranh chấp
thương mại. Chức danh giám đốc công ty sẽ đồng thời do Chủ tịch Hội đồng
thành viên, là thành viên hợp danh do Hội đồng thành viên bầu ra đồng thời
đảm nhiệm nếu Điều lệ công ty không có quy định khác. Luật Doanh nghiệp
năm 2014 quy định:
Điều 179:
“1. Các thành viên hợp danh có quyền thay mặt theo pháp luật và tổ
chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty. Mọi hạn chế
đối với thành viên hợp danh trong thực hiện công việc kinh doanh hằng ngày
của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó được biết về hạn
chế đó.
2. Trong điều hành hoạt động kinh doanh của công ty, thành viên hợp
danh phân công nhau đảm nhận các chức năng quản lí và kiểm soát công ty.
4. Chủ tịch Hội đồng thành viên, giám đốc hay Tổng giám đốc có các
nhiệm vụ sau đây:
a) Quản lí và điều hành công ty với tư cách là thành viên hợp danh;”
13
Về nguyên tắc, công ty hợp danh thành lập và hoạt động trên sự tin cậy và
tín nhiệm nhau là chính yếu, do vậy, các thành viên hợp danh sẽ phân công
nhau đảm nhận các chức năng quản lí và kiểm soát công ty, giám đốc công ty
đồng thời cũng là thành viên hợp danh trong công ty. Tuy nhiên, Luật Doanh
nghiệp năm 2014 cũng không hạn chế việc công ty hợp danh thuê giám đốc,
mọi cá nhân, tổ chức nếu thỏa mãn các điều kiện về trình độ, chuyên môn,
năng lực và sự hiểu biết theo yêu cầu của doanh nghiệp đều có thể trở thành
người quản lí doanh nghiệp, trừ các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều
18 Luật này. Và trên thực tế, vẫn có một số ít các công ty hợp danh đã tiến
hành thuê giám đốc cho công ty mình.
Nhìn chung, Luật Doanh nghiệp Việt Nam còn quy định sơ sài về cơ cấu tổ
chức của công ty hợp danh, đặc biệt là về nhiệm vụ, quyền hạn, tư cách của
người giữ chức vụ giám đốc công ty.
KẾT BÀI
Công ty hợp danh là mô hình công ty đối nhân xuất hiện sớm trên thế giới,
với ưu thế về sự liên kết uy tín cá nhân nhiều người, tạo chế độ liên đới chịu
trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh, cùng cơ cấu tổ chức gọn
nhẹ loại hình doanh nghiệp này đã tạo được nhiều sự tin cậy của các bạn
hàng, đối tác kinh doanh. Tuy rằng, cho đến nay công ty hợp danh vẫn chưa
thực sự phổ biến ở Việt Nam và pháp luật Việt Nam nói chung cũng ít có sự
điều chỉnh đối với loại hình doanh nghiệp này nhưng nhìn chung, mô hình
này đang dần phù hợp với xu thế phát triển doanh nghiệp loại vừa và nhỏ
trên thế giới.
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status