Vai trò và bản chất của tiền lương và các khoản trích theo lương - pdf 27

Download miễn phí Vai trò và bản chất của tiền lương và các khoản trích theo lương



Để thanh toán tiền lương, thưởng và các phụ cấp trợ cấp cho người lao động, hàng tháng kế toán doanh nghiệp phải lập "Bảng thanh toán tiền lương" cho từng tổ, đội, phân xưởng sản xuất và các phòng ban căn cứ vào kết quả tính lương cho từng người. Trong bảng thanh toán tiền lương có ghi rõ từng khoản tiền lương gồm lương sản phẩm, lương thời gian, các khoản phụ cấp, trợ cấp, các khoản khấu trừ và số tiền người lao động được lĩnh. Các khoản thanh toán trợ cấp BHXH cũng được lập tương tự. Sau khi kế toán trưởng kiểm tra, xác nhận, ký, giám đốc ký duyệt, "Bảng thanh toán lương và BHXH" sẽ là căn cứ để thanh toán lương BHXH cho từng người lao động.
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


công) chính là phần thù lao lao động được biểu hiện bằng tiền mà các doanh nghiệp trả cho người lao động căn cứ vào thời gian, khối lượng và chất lượng công việc của họ. Về bản chất tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, được thoả thuận hợp lý của người mua và người bán sức lao động. Trong xã hội phát triển, tiền lương trở thành một bộ phận của họ. Mặt khác, tiền lương còn là đòn bảy kinh tế. Để khuyến khích tinh thần hăng hái lao động, kích thích và tạo mối quan tâm của người lao động đến kết quả công việc của họ. Nói cách khác, tiền lương là một nhân tố thúc đẩy năng suất lao động.
Cũng như các loại hàng hoá khác trên thị trường, tiền lương cũng tuân theo quy luật cung cầu, quy luật giá cả trên thị trường và theo quy định của Nhà nước. Trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, tiền lương không gắn chặt với số lượng và chất lượng lao động vì thế nó không tạo được động lực phát triển sản xuất. Chỉ từ khi đổi mới cơ chế nền kinh tế, nó mới thực sự đóng vai trò thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Như vậy, ta có thể tổng hợp khái niệm về tiền lương: "Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả của yếu tố sức lao động mà người sử dụng lao động phải cho cho người cung ứng sức lao động, tuân theo các nguyên tắc cung cầu, giá cả thị trường và pháp luật hiện hành của Nhà nước". Tiền lương vừa là một phạm trù về phân phối vừa là một phạm trù của trao đổi và tiêu dùng.
Trên thực tế, tiền lương chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó đáp ứng được nhu cầu của người lao động. Xã hội càng phát triển, trình độ và kỹ năng làm việc của người lao động ngày càng cao, tiền lương không chỉ đáp ứng được nhu cầu tinh thần của người lao động. Người lao động không quan tâm đến khối lượng tiền nhận được mà thực chất là họ quan tâm đến khối lượng hàng hoá dịch vụ mà họ có thể mua được bằng tiền của mình. Do vậy, đã tồn tại hai khái niệm là tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa.
Tiền lương danh nghĩa được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc vào trình độ lao động và kinh nghiệm của họ.
Tiền lương thực tế là số lượng mà các loại hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng cần thiết mà người lao động có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa của họ.
Mối liên hệ giữa tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa.
Tiền lương thực tế =
Vậy, tiền lương thực tế phụ thuộc nhiều vào tiền lương danh nghĩa và chỉ số giá cả hàng hoá, dịch vụ. Nếu tiền lương danh nghĩa cao mà chỉ số giá cả cũng cao thì tiền lương thực tế thấp. Chỉ khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn tốc độ tăng thêm của chỉ số giá cả thì thu nhập thực tế của người lao động mới tăng. Tiền lương thực tế là yếu tố quyết định khả năng tái sản xuất.
Theo điều 55 của Bộ Luật Lao động ghi: "Tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và trả theo năng suất lao động, chất lượng lao động và hiệu quả công việc".
b) Bản chất của các khoản trích theo lương
Các khoản trích theo lương gồm có: Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Kinh phí công đoàn.
* Bảo hiểm xã hội
Theo khái niệm của Tổ chức lao động quốc tế ILOS, Bảo hiểm xã hội được hiểu là sự bảo vệ của xã hội với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế - xã hội, bị giảm thu nhập do ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngaòi ngân sách Nhà nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm cả: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
Nguồn hình thành quỹ BHXH:
Theo Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 và điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau:
- Người sử dụng lao động đóng bằng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và tử tuất.
- Nhà nước đóng góp và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động
- Các nguồn khác: được viện trợ từ các tổ chức trong và ngoài nước
* Bảo hiểm y tế
Nhằm xã hội hoá việc khám chữa bệnh, người lao động còn được hưởng các khoản khám chữa bệnh không mất tiền bao gồm các khoản viện phí, thuốc men trong thời gian sinh đẻ nếu họ có thẻ bảo hiểm y tế và các khoản khám chữa bệnh đó nằm trong phạm vi bảo hiểm. Thẻ BHYT được trích mua từ quỹ BHYT.
Theo Nghị định 47-CP ngày 6/6/1994 quy định, tỷ lệ trích BHXH 3% tiền lương, trong đó 2% tính vào chi phí sản xuất kinh doanh do chủ doanh nghiệp (người sử dụng lao động) trả, 1% tính trừ vào thu nhập của người lao động. BHXH mang tính chất bắt buộc với mọi cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
c) Kinh phí công đoàn
Công đoàn là một tổ chức của người lao động, do người lao động lập ra, hoạt động vì lợi ích của người lao động. Công đoàn thay mặt cho toàn thể cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, vừa bảo vệ quyền lợi vừa trực tiếp hướng dẫn và giáo dục thái độ lao động cho họ. Đây là một tổ chức cần thiết trong mọi doanh nghiệp. Để có nguồn kinh phí cho hoạt động của tổ chức công đoàn, hàng tháng các doanh nghiệp phải trích một tỷ lệ quy định trên tổng tiền lương tiền công và phụ cấp thực tế phải trả lao động để hình thành kinh phí công đoàn.
Theo chế độ hiện hành, tỷ lệ trích kinh phí công đoàn là 2% được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh do chủ doanh nghiệp chịu. Trong 2% này thì 1% nộp cho hoạt động công đoàn cấp trên, 1% còn lại dành cho hoạt động công đoàn cơ sở.
1.1.3. Yêu cầu của kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương
1.1.3.1. Yêu cầu quản lý tiền lương và các khoản trích theo lương
Xuất phát từ tầm quan trọng của tiền lương và các khoản trích theo lương đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói riêng, cũng như toàn bộ nền kinh tế nói chung, trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp cần thực hiện tốt yêu cầu quản lý tiền lương và các khoản trích theo lương.
- Theo dõi chặt chẽ số lượng lao động trong doanh nghiệp, thời gian làm việc, trình độ của người lao động. Từ đó, lựa chọn hình thức trả lương phù hợp với mỗi người, phải tổ chức phân công lao động sao cho họ có thể phát huy hết khả năng của mình để phục vụ cho công ty.
- Xây dựng kế hoạch tiền lương, tổ chức thực hiện kế hoạch tiền lương sao cho tiết kiệm, có hiệu quả, đúng chính sách của Nhà nước thực hiện các chế độ thống kê về lao động tiền lương một cách chính xác, trung thực, kịp ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status