Sự vận dụng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở Việt Nam - pdf 28

Download miễn phí Đề tài Sự vận dụng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở Việt Nam



Lời nói đầu Trang
I- Lý luận của lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội 3
1/ Chính sách kinh tế mới và sự cần thiết vận dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước 3
2/ Vai trò của chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thòi kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội 7
3/ Các hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước áp dụng thời Lênin 9
4/ Điều kiện cần thiết để sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước 10
5/ Kết quả thực hiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước thời Lê nin 11
II- Sự vận dụng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở Việt Nam 13
1/ Sự cần thiết của khả năng sử dụng kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta. 13
2/ Những hình thức cụ thể của kinh tế tư bản Nhà nước đang vận dụng ở nước ta 18
3/ Phương hướng và những điều kiện để vận dụng có hiệu quả kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta hiện nay 25
Tài liệu tham khảo 32
 
 
 
 
 
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


n điều kiện lao động, kỳ hạn phát lượng, về quy tắc khoa học và kỹ thuật...
b/ Hợp tác xã tư bản sản xuất là xí nghiệp hợp tác xã. Đặc trưng của các xí nghiệp này là sự kết hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống hay là tổ chức bao gồm nhiều tiêu biểu nghiệp chủ. Nó khác với các xí nghiệp tư nhân ở chỗ hợp tác xã là những xí nghiệp tâp thể, là một hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước.
c/ Hình thức đại lý uỷ thác Lênin coi hình thức này là hình thức thứ ba. Theo hình thức này Nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách một nhà buôn, trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của Nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ.
d/ Cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp, vùng mỏ, rừng, đất. Hình thức này cũng giống hình thức tô nhượng, nhưng đối tượng thuê là tư bản trong nước.
e/ Cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ và những ngưòi nông dân này phải nộp tô cho Nhà nước (30% số than khai thác được). Hình thức này trực tiếp tạo ra việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống nông dân.
g/ Công ty hợp doanh là các Công ty được thành lập theo thể thức tiền vốn một phần là của tư bản tư nhân, ngoài ra của tư bản nước ngoài và một phần là của chính quyền Xô Viết. Loại hình này chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp.
4- Để thực hiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước không làm thay đổi căn bản chế độ XHCN - theo Lênin - phải có hai điều kiện: một là, chính quyền Nhà nước phải nằm trong tay gia cấp công nhân và Nhà nước quy định khuôn khổ cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Nhà nước; hai là Nhà nước phải nắm các đỉnh cao kinh tế để điều tiết nền kinh tế. Người nói: chủ nghĩa tư bản Nhà nước ấy không đáng sợ vì "chủ nghĩa tư bản ấy sẽ chịu sự kiểm soát, sự giám sát của Nhà nước. Nếu Nhà nước công nhân nắm lấy công xưởng, nhà máy và đường sắt thì chúng ta không sợ gì chủ nghĩa tư bản ấy". (1) - "Chính sách kinh tế mới không thay đổi cái gì có tính chất căn bản trong chế độ xã hội của nước Nga - Xô Viết và cũng không thể thay đổi được gì chừng nào mà chính quyền còn ở trong tay công nhân" (1). Như vậy vấn đề ở chỗ nhà nước XHCN phải kiểm soát, ngăn chặn bất cứ tư bản nào vượt ra khỏi khuôn khổ chủ nghĩa tư bản Nhà nước và phải làm cho nó phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân.
Như đã nói ở phần trước, chủ nghĩa tư bản Nhà nước dưới chế độ XHCN là chủ nghĩa tư bản Nhà nước đặc biệt, dưới sự kiểm kê, kiểm soát và sự hỗn hợp về vốn Nhà nước và các doanh nghiệp sẽ hướng các doanh nghiệp theo: "tay lái" của Nhà nước. Như vậy, Nhà nước công nhân phải đưa ra những khuôn khổ, theo dõi, giám sát sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Nhưng theo Lênin như vậy vẫn chưa đủ - Khi thực hành chính sách tô nhượng Lênin nhắc nhở ". Nếu chính quyền Xô Viết đem tô nhượng phần lớn tài sản của mình thì như vậy là hoàn toàn khờ daị, như vậy không phải là tô nhượng nữa mà là quay trở lại chủ nghĩa tư bản" (1). Nhà nước phải nắm những ngành kinh tế những khu vực kinh tế quan trọng để điều tiết nền kinh tế. Nhà nước phải nắm lấy thương nghiệp, "điều tiết việc mua bán và lưu thông hàng hoá, tiền tệ".
Lênin cũng cho rằng chủ nghĩa tư bản Nhà nước là một hình thức mới của đấu tranh giai cấp, chứ không phải hoà bình giai cấp. Trong báo cáo về Tô nhượng Lênin viết" bất cứ người dân tô nhượng nào cũng vẫn là nhà tư bản, và nó sẽ cố gắng phá hoại chính quyền Xô Viết". Và Lênin cũng lưu ý: "người nhận tô nhượng phải có trách nhiệm cải thiện đời sống của công nhân trong xí nghiệp tô nhượng... các điều kiện về lương, về sinh hoạt vật chất, về thuê mướn... phải quy định rõ trong hợp đồng tô nhượng". Sao cho phù hợp với pháp luật nước Nga. Tức Nhà nước phải bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, ngay cả khi sự điều tiết của Nhà nước thành công.
Như vậy, với hai điều kiện: một là, chính quyền Nhà nước nắm trong tay giai cấp vô sản và Nhà nước quy định khuôn khổ cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Nhà nước, hai là, Nhà nước nắm các đỉnh cao kinh tế, thì việc thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước là không đáng sợ, không làm thay đổi được bản chất của Nhà nước XHCN - nước Nga Xô Viết.
5- Kết quả thực hiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước thời Lênin.
Sự thực hành NEP thời Lênin đã mang lại những kết quả lớn. Đến tháng 11 năm 1922 (khoảng hơn 1 năm thực hành chế độ này), Lênin đã trình bầy khái quát những thành tựu của NEP nói chung và chủ nghĩa tư bản Nhà nước nói riêng như sau:
Trước hết và chủ yếu là tình hình giai cấp công nhân, từ chỗ đói kém, một bộ phận rất lớn trong nông dân bất bình, đến chỗ trong vòng 1 năm, nông dân chẳng những đã thoát khỏi được nạn đói, mà còn nộp được thuế lương thực hàng trăm triệu Put. Từ những cuộc bạo động mang tính chất phổ biến 1921, nông dân đã hài lòng với tình hình của họ. Công nghiệp nhẹ đang có đà phát triển, đời sống của công nhân được cải thiện, tình trạng bất mãn của công nhân không còn nữa.
Công nghiệp nặng tuy vẫn còn khó khăn, nhưng đã có sự thay đổi nhất định, lý do là không có những khoản cho vay lớn hàng mấy trăm triệu đô la. Chính sách tô nhượng thì hay thật nhưng cho đến lúc ấy (1922) vẫn chưa có một tô nhượng sinh lợi nào trong công nghiệp nặng. Không hy vọng vay được ở các nước giầu có, vì các nước đế quốc vẫn đang muốn bóp chết Nhà nước XHCN non trẻ. Tuy nhiên, nhờ chính sách kinh tế mới mà thu được một số vốn lớn hơn 20 triệu rúp vàng (nhờ thương nghiệp mà có vốn ấy). Điều quan trọng nữa là tiết kiệm về mọi mặt, kể cả những chi phí về trường học để cứu vãn công nghiệp nặng.
Riêng về chính sách chủ nghĩa tư bản Nhà nước, qua các tài liệu và sự đánh giá cho dến năm 1924, nhìn chung đã mang lại cho nước Nga Xô Viết những tác dụng tích cực nhất định, góp phần làm sống động nền kinh tế nước Nga đã bị suy sụp sau chiến tranh. Nhờ tô nhượng với nước ngoài, nhiều ngành công nghiệp quan trọng (đặc biệt khai thác dầu) đã phát triển, nhiều kinh nghiệm tiên tiến với kỹ thuật, thiết bị hiện đại của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa được đưa vào quá trình sản xuất, mang lại hiệu quả cao. Tô nhượng cùng các Công ty sản xuất hàng hoá, tăng thêm dự trữ ngoại tệ cho đất nước, mở rộng các quan hệ liên doanh, liên kết kinh tế trong các lĩnh vực đầu tư sản xuất chuyển giao công nghệ tiên tiến và phát triển ngoại thương với các nước tư bản phương Tây. Thông qua các hoạt động của các công ty hợp doanh, những người cộng sản Nga còn có thể thực sự học cách buôn bán điều mà bấy giờ Lênin thường nói là hiện vụ rất quan trọng. Hoat động của các xí nghiệp cho thuê, các xí nghiệp hỗn hợp đã góp phần giúp Nhà nước Xô Viết duy trì sự hoạt động sản xuất bình thường ở các cơ sở kinh tế, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, việc làm cho người lao động. Hình thức đại lý thương nghiệp và các hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong các lĩnh vực sản xuất, tín dụng và tiêu thụ đã góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ thương nghiệp XHCN, đẩy nhanh quá trình trao đổi và lưu thông hàng hoá, tiền tệ, làm sống động nền sản xuất hàng hoá nhỏ, qua đó cải biến những người tiểu nông, nối liên quan hệ trao đổi công nông nghiệp, thành thị - nông thôn...
Những kết quả ấy có ý nghĩa tích cực đối với nước Nga Xô Viết. Nó góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển kinh tế nước Nga sau chiến tranh. Tuy nhiên so với sự mong muốn và mục tiêu ban đầu đặt ra của Lênin thì kết quả thực hành chế độ này vẫn còn rất thấp. Nguyên nhân quan trọng nhất là chủ nghĩa tư bản đế quốc vẫn tìm cách bóp chết chính quyền Xô Viết, vì thế sự hợp tác, đầu tư của tư bản nước ngoài vào Liên Xô, không đạt sự mong muốn. Và trong những năm 1923, 1924 tỷ trọng của chủ nghĩa tư bản Nhà nước với tư cách là một thành phần, một hình thức kinh tế, trong tổng sản phẩm của cả nước chỉ chiếm có 1%. Năm 1923, các xí nghiệp tô nhượng mới sản xuất được khối lượng của sản phẩm trị giá 35,1 triệu rup.
Tuy nhiên, kết quả lớn nhất là bắt đầu hình thành một khái niệm mới, và chủ nghĩa tư bản Nhà nước đã thực sự là một phần đặc trưng của NEP và nhờ NEP mà chính quyền Xô Viết đã giữ được những vị trí vững chắc trong nông nghiệp và công nghiệp và có khả năng tiến lên được. Nông dân vừa lòng, công nghiệp cũng như thương nghiệp đang hồi sinh và phát triển. Đó là một thắng lợi của chính quyền Xô Viết.
II- Sự vận dụng lý luận của lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở Việt Nam.
1/ Sự cần thiết và khả năng ứng dụng kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta.
Như đã nói ở phần trước chủ nghĩa tư bản Nhà nước là cách "là "con đường" chắc chắt và có thể nói và duy nhất có thể chọ đối với các nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ chiếm đa số, tức đi lên chủ nghĩa xã hội, nước ta phải thực hiện một bước quá độ khó khăn và lâu dài, xuyên qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Tính tất yếu khách quan của việc ứng dụng rộng rãi các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta thể hiện ở các điểm sau:
a/ Do yêu cầu của sự vận dụng quy luật qua hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở một nước nông nghiệp lạc hậu.
Chúng ta đi lên CNXH từ xuát phát điểm thấp, từ nền "tiểu sản xuất"....
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status