Thị trường Mỹ và khả năng thâm nhập thị trường Mỹ của ngành cà phê Việt Nam - pdf 28

Download miễn phí Đề tài Thị trường Mỹ và khả năng thâm nhập thị trường Mỹ của ngành cà phê Việt Nam



 Việt Nam hiện nay đang thực hiện điều chỉnh phương hướng chiến lược nhằm vào những nội dung chủ yếu sau:
 - Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, xách định mục tiêu chiến lược cho toàn ngành.
 + Chuyển dịc cơ cấu cây trồng: Ngành cà phê Việt Nam chủ trương đổi mới phương hướng sản xuất cà phê theo hai hướng:
 * Giảm bớt diện tích cà phê Rubusta. Chuyển các diện tích cà phê phát triển kém,không có hiệu quả sang các loại cây trồng lâu năm khác như cao su, hồ tiêu, hạt điệu, cây ăn quả và cây hàng năm như bông, ngô lai .
 * Mở rộng diện tích cà phê Arabica ở những nơi có điều kiện khí hậu đất đai thích hợp.
 + Mục tiêu: Mục tiêu cuối cùng trong chiến lược này là giữ tổng diện tích cà phê không đổi ở mức hiện nay, hay giảm chút ít, nằm trong khoảng 450.000 ha đến 500.000 ha, nhưng cơ cấu chủng loại cà phê cần thay đổi, trong đó
 Cà phê Robusta 350.000 ha đến 400.000 ( giảm 100.000 – 150.000 ha )
 Cà phê Arabica ( 100.000 ha tăng 60.000 ha so với hế hoạch cũ trồng 40.000 ha bằng vốn vay của cơ quan phát triển Pháp)
 Tổng sản lượng cà phê đảm bảo ở mức 600.000 tấn tương đương 10 triệu bao so với hiện nay giảm 5 triệu bao và là 5 triệu bao cà phê Robusta.
 - Hạ giá thành sản xuất nâng cao hiệu quả kinh doanh:
 Mặc dù chi phí lao động của ngành cà phê Việt Nam tương đơi thấp so với nhiều nước khác vì GDP bình quân trên đầu người cũng thấp, năng suất cà phê Việt Nam cũng vào loại cao trên thế giới nhưng giá thành cà phê Việt Nam vẫn chưa thấp đến mức có thể cạnh tranh được.Nguyên nhân chủ yếu là do nông dân Việt Nam với mong muốn đạt năng suất cao nhất đã tăng đầu tư phân bón , nước tưới lên mức rất cao đã làm giảm hiệu qủa của đầu tư và tăng giá thành sản xuất. Việc cần làm là phải giảm chi phí đàu vào để hạ giá thành sản xuất .
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


à phê là một nặt hàng nông sản quan trọng trong tông rkim ngạch xuất khẩu của Việt Nam . Hàng năm cà phê mang lại cho đất nước giá trị lớn mà còn giúp Chính phủ thực hiện tố các chương trình quốc gia về xã hội, môi trường, xoá đói giảm nghèo,
Chương II
Thực trạng xuất khẩu cà phê sang thị trường Mỹ
I – Một số điểm cần lưu ý khi suất khẩu sang thị trường Mỹ.
1- Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạch định chính sách thương mại Mỹ.
Thương mại là một ngành kinh tế có tính chất tổng hợp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân, do đó cơ cấu tổ chức, bộ máy hoạch định chính sách thương mại, rat phức tạp. Toàn bộ các hoạt động thương mại do một hệ thống tổng hợp các đạo luật cơ bản, các quy chế, thể lệ, điều tiết. Các đạo luật cơ bản do Quốc hội Mỹ – mà chủ yếu là Hạ Nghị viện thuộc ngành lập pháp – ban hành. Dựa theo các đạo luật này, ngành hành pháp ban hành các sắc lệnh, nghị định và toà án ra quyết định thi để hành luật đã ban bố. Tất cả các văn kiện pháp lý này, cùng với các Công ước quốc tế mà Mỹ tham gia và được Quốc hội phê chuẩn, đã và đang chi phối toàn bộ mối quan hệ kinh tế đối ngoại của Mỹ nói chung, trong đó có các chính sách trong việc nhập khẩu.
Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạch định chính sách thương mại Mỹ gồm:
Quốc hội:
Các cơ quan hành pháp:
Các ủy ban Nhà nước chuyên trách.
A – Quốc hội là cơ quan phê chuẩn mọi chính sách kinh tế đối ngoại Mỹ.
Đứng về mặt thương mại, Quốc hội được Hiến pháp giao quyền điều tiết các quan hệ kinh tế đối ngoại, định và thu các loại thuế.
Như vậy mọi Hiệp định thương mại, áp dụng các loạI thuế khoá, hay chính sách hạn chế nhập khẩu đều phảI dựu trên và giới hạn trong phạI vi luật pháp và quyền hạn mà quốc hội cho phép.
B – Các cơ quan hành pháp tham gia hoạch định chính sách thương mạI:
* Vai trò và bộ máy điều hành của Tổng thống trong việc hoạch định chính sách kinh btế thương mạI:
Tổng thống Mỹ là người thay mặt tối cao của ngành hành pháp . Tổng thống có quyền yêu cầu tham nghị lần thứ 2 đối với những luật mà Quốc hội ban hành hi được đa số phiếu tán thành của ĐạI biểu. Sau đó, Tổng thống có nhiệm vụ tổ chức thi hành các luật này.
* Hoạch định chính sách thương mạI là một quá trình phối hợp liên bộ:
Bộ thương mạI là cơ quan đầu não, quản lý toàn bộ mạng lưới kinh tế.
Bộ Nông nghiệp có vai trò hoạch định chính sách thương mạI Mỹ đảm bảolợi ích của ngành Nông nghiệp quốc gia.
Bộ NgoạI giao có nhiệm vụ cố vấn cho Tổng thống trong việc hoạch định và thi hành chính sách ngoạI giao và có vai trò quan trọng, chủ yếu trong việc nghiên cứu phân tích đánh giá tình hình nhằm đưa ra những kiến nghị về mặt chính sách ở những lĩnh vực tác động tới lợi ích của Mỹ ở nước ngoài. Đặc biệt là trong các vấn đề thương mạI, đầu tư, dịch vụ vì những vấn đề này có ảnh hưởng trực tiếp quan hệ đối ngoại.
Bộ Ngân khố: quản lý chính sách kinh tế và tàI chính, chính sách thuế, quản lý nợ của Nhà nước, phát hành tiền, Bộ Ngân khố phụ trách cơ quan HảI quan Mỹ.
C – Các ủy ban Nhà nước chuyên trách tham gia hoạch định chính sách thương mạI:
* ủy ban thương mại quốc tế:
Cố vấn về đàm phán thương mạI, chế độ ưu đãI thuế quan phổ cập (GSP), nới rộng nhập khẩu phục vụcông nghiệp trong nước, buôn bán với thế giới.
ĐIũu tra phương hạI gây ra do tình trạng trợ cấp, bán phá giá hàng hoá, những bất hợp lý trong nhập khẩu.
* Các ủy ban cố vấn thuộc khu vực tư nhân:
Luật Thương mạI Mỹ 1974 còn quy định một cơ chế tập hợp ý kiến đóng góp, cố vấn của giới tư nhân cho các vấn đề thương mạI quốc tế. Quốc hoịi mở rộng quyền hạn cho ủy ban này, cho phếp họ được cố vấn về những lĩnh vực cần được ưu tiên, về phương hướng của chính sách thương mạI Mỹ. Mặc dù thành viên của ủy ban này không phảI là thành viên Chính phủ, nhưng tiếng nói của họ rat có trọng lượng.
2 – Luật pháp, thể lệ chính sách thương mạI Mỹ trong nhập khẩu.
2.1 – Chính sách nhập khẩu hàng hoá của Mỹ.
A – Những quy định cơ bản.
Dù là Mỹột nước có chủ trương tự do hóa thương mạI, nước Mỹ cũng có chính sách về nhập khẩu nhằm bảo vệ người tiêu dùng và sản xuất trong nước. Các quy định của họ không khác của ta nhiều về đạI thể, nhưng nội dung thì chi tiết hơn nhiều.
Quy định của Chính phủ.
HảI quan Mỹ là cơ quan thực thi và áp dụng các quy định của Luật thuế quan (Tariffs Act) và những luật lệ khác của các bộ để đIũu chỉnh việc nhập khẩu hàng hóa. Họ cũng phụ trách việc chống các hành vi buôn lậu, vi pham. Quyền sở hữu trí tuệ, hàng gian, hàng giả được nhập khẩu. Từ năm 1994, hảI quan Mỹ hoạt động theo một luật goi là Luật tối tân hóa ngành hảI quan (Customs Modernization Act – gọi tắt là CMA hay ModAct) thiên nhiều về tự động hóa và chú trọng và việc hậu kiểm sau khi đã cho nhập hàng. Họ cho nộp hồ sơ qua các phương tiện đIửn tử, thúc đẩy việc tuân thủ và chia sẻ trách nhiệm giữa nhà nhập khẩu và hảI quan trong việc định giá và phân loạI hàng hóa. Khi chủ trương sự hợp tác và đơn giản hóa thủ tục như thế, Luật CMA đặt ra mức chế tàI nặng hơn trước và ngăn chặn việc tìm cách giảm số thuế phảI đóng. Bánh xe chính giúp cho bộ máy này hoạt động là hoá đơn thương mại. HảI quan Mỹ đặt tầm quan trọng lên văn kiện này.
Việc khai quan thuế do các nhà trung gian hay đạI lý (custom broker) thực hiện và 97% hàng hóa nhập vào Mỹ là do họ làm.
Việc áp thuế.
Giống như ở ta, việc ấn định thuế quan ở Mỹ được căn cứ trên bảng Hệ thống đIũu hoà trong mô tả và mã hàng (Harmonized Tasff Schedule, hay bảng HS ). Bảng này liệt kê các loạI hàng hoá và mã số của chúng rồi mức thuế áp dụng. Mức này, về đạI thể, được chia làm ba loại. Một, Mức ưu đãI dành cho một số mặt hàng đến từ những nước đang mở mang theo một số chương trình khác nhau, trong đó có Hệ thống ưu đãI phổ cập (Generalised System of Prefrences hay GSP ), thỏa ước mậu dịch tự do giữa Mỹ và Israel, khu vực Caribê, Mexico và Canada. Hai, mức thuế cao hơn dành cho các nước có giao dịch bình thường (hay có tối huệ quốc- MFN) với Mỹ. Đa số sản phẩm nằm trong mức này. Ba, mức cuối dành cho các nước khong được hưởng quy chế kia.
Hệ thống GSP chỉ áp dụng cho một số mặt hàng nhất định hội đủ một số tiêu chuẩn về chính trị và kinh tế. Dẫu xuất phát từ một quốc gia được hưởng quy chế này nhưng một số hàng nhất định khi vào Mỹ vẫn không được hưởng mức GSP nếu chúng vượt trên 50% số hàng cùng loạI đã nhập vào Mỹ; hay vượt quá một trị giá nhất định nào đó trong một năm. Chuyện còn tiếp tục được hưởng GSP hay không lạI tuỳ từng trường hợp vào một lệnh của tổng thống và Văn phòng ĐạI diện thương mạI Mỹ (US Trade Representative - USTR) duyệt lạI danh sách này hàng năm.
Thuế được ấn định theo ba cách: theo một con số bách phân dựa trên giá trị món hàng (ad valorem), thí dụ 5% trên giá trị món hàng; theo một số tiền nhất định (specific) thí dụ 12 xu mỗi ki-lô-gam; hay theo một mức hỗn hợp ( 7 xu một ki-lô-gam cộng 10% trên giá trị). NgoàI ra, có một số mặt hàng phảI chịu thêm thuế doanh thu hay mua bán (ngoàI thuế quan) như rượu, bia, thuốc lá, nước hoa và sản phẩm dầu khí.
Trách nhiệm đóng thuế do người sẽ nhận hàng chịu. Nừu hàng được giao đI nơI khác để tiêu thụ thì người hay tổ chức (công ty) có tên trong tờ khai hảI quan có trách nhiệm thanh toán. Nừu hàng được Lưu kho thì trách nhiệm đóng thuế thuộc về ai mua hàng và lấy hàng ra khỏi kho. Thuế có thể được trả theo từng kỳ sau khi nhập. HảI quan Mỹ có thời hạn năm năm để đòi tiền thuế.
Người nhập khẩu phảI nộp một giấy nhận nợ (bond) cho hảI quan Mỹ để bảo đảm thanh toán các khoản nợ như thuế quan ước tính, các loạI thuế khác, và tiền phạt. Giấy nhận nợ có thể mua từ các nơI phát hành giấy đó, nhưng thường thì người ta chỉ bán cho các đạI lý khai thuế quan phụ trách nhập hàng.
Lệ phí.
Các loạI này gồm có phí xử lý hàng, phí bảo dưỡng cảng. Phí xử lý hàng (Merchandise processing fee ) được đánh vào từng chuyến tàu hàng. Biểu thuế dành cho việc nhập hàng chính thức ( tức là hàng có giá trị trên 1.250 USD – ta gọi là mậu dịch ) liệt kê hàng loạt phí khác nhau từ 21 đến 400 USD cho mỗi lần nhập cùng với một số phí đánh theo tỷ lệ của giá trị món hàng là 0,19%. Cũng phí này nhưng cho loại hàng nhập không chính thức (tức là phi mậu dịch) thì mức phí là 2 USD cho hàng xử lý bằng máy, 4 USD cho hàng xử lý bằng tay mà không do hảI quan Mỹ làm và 8 USD nếu do họ làm. Giá trị cho hàng phi mậu dịch lớn nhất là 2.500 USD. Phí bảo dưỡng cảng: là phí theo giá trị bách phân của chuyến tàu hàng nhập vào. Phí này là 0.125% trên giá trị chuyến hàng và trả hàng quý.
Chống nguy cơ gây thiệt hại cho nền thương mại của Mỹ.
Luật Thương mại tập hợp (Omnibus Trade Act) năm 1988 giao cho Văn phòng ĐạI diện thương mại Mỹ một vai trò quyết định trong việc ấn định những tập tục thương mại không công bằng. Văn phòng này có quyền thay mặt Tổng thống Mỹ quyết định đIũu tra một tập tục thương mại ở một nước nào đó vì nó gây thiệt hạI cho nền thương mại của Mỹ. ĐạI diện thương mại cũng phảI tìm ra và xúc tiến đIũu tra những nước nào có những tập tục thương mại không công bằng mà gây thiệt hạI cho hàng xuất khẩu của Mỹ nhiều nhất. Khi tìm ra được rồi mà nướ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status