Một số tác động của lãi suất đến hoạt động của ngân hàng thương mại - pdf 28

Download miễn phí Đề tài Một số tác động của lãi suất đến hoạt động của ngân hàng thương mại



Trong thời kỳ quan liêu trì trệ trước năm 1988, lãi suất của Việt nam không theo qui luật lãi suất thực nên lãi suất do Ngân hang trung ương áp đặt là một trong những nguyên nhân gây và kéo dài lạm phát phi mã. Đến tháng 3/1989 với quyết định 39/HĐBT qui luật lãi suất thực mới được công nhận nhưng tư tưởng “lãi suất ngân hàng phải áp sát lãi suất thị trường” đã dẫn đến lãi suất tiết kiệm cực kỳ cao 12%/ tháng dù tỷ lệ lạm phát nửa cuối năm 1988 chỉ còn 7%/ tháng và tháng 3 năm 1989 chỉ còn 5,56%/ tháng .sau đó Nhà nước không cho hạ tiếp, nhưng lãi suất cực kỳ cao vẫn còn ảnh hưởng tâm lý ngày nay, người gửi tiền đòi hỏi lãi suất cao.
Năm 1994 Ngân hàng Trung ương đã công bố chủ trương hạ lãi suất trong cuộc họp giám đốc đầu năm, nhưng chủ trương này không được thực hiện với lý do tỷ lệ lạm phát bị đẩy cao lên gấp đôi năm 1993 mặc dù lạm phát vẫn gần với một con số. Trong 3 năm chậm hạ lãi suất tiền gửi các ngân hàng chỉ sử dụng hết 1/2, cụ thể các NHTM cổ phần từ chỗ sử dụng nguồn vốn tiền gửi để cho vay tới 87,02% năm 1993 tụt xuống chỉ còn có 74,75% năm 1994 và 58,98% vào giữa năm 1996.
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


.
Nhân tố ảnh hưởng đến cung quĩ cho vay:
Thu nhập tăng: cung quĩ cho vay tăng, lãi suất giảm và ngược lại.
Tỷ suất lợi tức dự tính của các công cụ nợ tăng: cung quĩ cho vay tăng, lãi suất giảm và ngược lại.
Tính lỏng của công cụ nợ tăng: làm cầu công cụ nợ tăng, cung quĩ cho vay tăng, lãi suất giảm và ngược lại.
Trên thực tế các nhân tố ảnh hưởng đến cung và cầu quĩ cho vay tác động đến cả hai, không có tính riêng biệt hoàn toàn. Vì thế để đoán sự biến động của lãi suất cần nghiên cứu đầy đủ tác động qua lại này.
Phương pháp nhìn từ góc độ cung cầu tiền:
Cung - cầu tiền:
Mức cung tiền mà Keynes đề cập đến trong mô hình là M1. Thành phần M1 bao gồm tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng và tiền gửi không kỳ hạn có phát hành séc. M1 do ngân hàng Trung ương quyết định và được cố định cho mọi mức lãi suất. Vì mức cung tiền không thay đổi theo lãi suất nên đường cung tiền biểu diễn mối quan hệ giữâ lượng tiền và lãi suất là đường thẳng đứng.
Mức cầu tiền là lượng tiền mà các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân muốn nắm giữ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hiện tại và trong tương lai với giá cả và các biến số kinh tế khác cho trước. Như vậy cầu tiền tệ được tạo bởi nhu cầu tiền tệ của các doanh nghiệp, các tổ chức và các cá nhân. Lượng cầu tiền biến động ngược chiều với sự biến động của lãi suất vì vậy đường cầu về tiền là đường dốc xuống.
Đường cung và cầu cắt nhau tại điểm cân bằng làm hình thành nên mức lãi suất trên thị trường tiền tệ.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường tiền tệ:
Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu tiền :
Thu nhập tăng: các chủ thể kinh tế muốn giữ thêm tiền làm nơi dự trữ giá trị đồng thời muốn chi tiền cho tiêu dùng nhiều hơn làm cầu tiền tăng, lãi suất tăng và ngược lại.
Mức giá cả tăng: sức mua giảm, người ta muốn giữ lượng tiền nhiều hơn để đảm bảo vẫn mua được lượng hàng hoá dịch vụ như trước, cầu tiền tăng, lãi suất tăng và ngược lại.
Các nhân tố ảnh hưởng đến cung tiền:
Mức cung tiền MS: Sự thay đổi mức cung tiền do ngân hàng Trung ương quyết định biểu hiện khi ngân hàng Trung ương tăng cung ứng tiền thì lượng cung tiền tăng và ngược lại. Trong dài hạn, một sự tăng lên của lượng tiền cung ứng có thể dẫn đến lãi suất thị trường tăng.
B/ Chính sách lãi suất của Việt nam:
Chính sách lãi suất của việt nam trong thời gian qua:
Giai đoạn trước năm 1992 là thời kỳ lãi suất âm:
Chính sách lãi suất âm được duy trì trong suốt thời kỳ bao cấp và trong điều kiện mức lạm phát cao, mức lãi suất cho vay nhỏ hơn lãi suất tiền gửi, lãi suất danh nghĩa nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát. Tình trạng này làm cho lãi suất không thể thực hiện được chức năng vốn có của nó. Lãi suất không còn là đòn bẩy kích thích nhu cầu gửi tiền của công chúng, phát huy tính hiệu quả trong quá trình sử dụng vốn và bảo đảm lợi nhuận cho ngân hàng. Trong giai đoạn này, mặc dù có nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 và hai pháp lệnh ngân hàng ngày 1/10/1990 tách hệ thống ngân hàng một cấp thành hai cấp, từng bước chuyển hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường. Nhưng do lạm phát còn ở mức độ rất cao nên chính sách lãi suất chưa thực hiện được lãi suất dương mà vẫn theo lãi suất âm. Ngân hàng Nhà nước qui định cụ thể các loại lãi suất tiền gửi và tiền vay để các ngân hàng thương mại thực hiện.
Giai đoạn cuối năm 1992 chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương:
Khi lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi tương đối thấp, có điều kiện thực hiện chính sách lãi suất dương tức là lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động và lãi suất tiền gửi cao hơn lạm phát. Tháng 10/1992 ngân hàng Nhà nước bắt đầu từng bước thực hiện lãi suất dương và đến tháng 3/1993 thì thực hiện lãi suất dương hoàn toàn, nhưng ngân hàng vẫn qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể có sự phân biệt lãi suất giữa các thành phần kinh tế cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước thấp hơn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lãi suất cho vay ngắn hạn còn cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn, lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm các tổ chức kinh tế.
Giai đoạn vừa qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thê vừa cho vay theo lãi suất thoả thuận:
Từ 1/10/1993 ngân hàng Nhà nước qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể vừa cho phép các tổ chức tín dụng cho vay theo lãi suất thoả thuận vượt mức lãi suất cho vay cụ thể (quyết định 184/QĐ-NH ngày 28/9/1993). Lãi suất giai đoạn này có 2 loại lãi suất cho vay doanh nghiệp Nhà nước 1,8%/tháng, lãi suất cho vay kinh tế ngoài quốc doanh cao nhất 2,1%/tháng. Từ cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, các ngân hàng đã cho vay theo lãi suất thoả thuận với tỷ lệ khá cao: từ 30% -60% dư nợ và đối tượng chịu lãi suất thoả thuận chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ nông dân, chủ yếu là khu vực phía nam và đồng bằng sông Cửu long cho vay lãi suất theo nhu cầu vốn ở nông thôn lớn hơn và chi phí hoạt động ngân hàng ở nông thôn cao hơn thì lãi suất cho vay sẽ cao hơn các khu vực khác. Thời kỳ cho vay theo lãi suất thoả thuận, các ngân hàng đạt mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động rất cao phổ biến là từ 0,7%-1%/tháng, cho nên hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính. Từ thực trạng này Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 8 đã thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu hoạt động tín dụng ngân hàng đồng thời yêu cầu các ngân hàng thương mại phải tiết kiệm chi phí để giảm lãi suất cho vay, đồng thời khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động 0,35%/tháng. Đó là lý do chuyển sang giai đoạn thực hiện chính sách lãi suất trần.
Từ 1/1/1996 là giai đoạn thực hiện chính sách trần lãi suất:
Ngân hàng Nhà nước điều hành theo chính sách lãi suất theo trần lãi suất nhằm khống chế lãi suất cho vay tối đa của các ngân hàng thương mại. Trần lãi suất cho vay được qui định nhiều mức khác nhau, xuất phát từ đặc điểm có nhiều loại hình tổ chức tín dụng hoạt động trên các địa bàn khác nhau, nên qui định nhiều mức trần lãi suất cho vay khác nhau: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, cho vay trên địa bàn nông thôn, đến ngày 21/1/1998 chỉ còn 3 mức lãi suất bỏ mức lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn.
Vấn đề điều hành lãi suất cơ bản theo luật ngân hàng Nhà nước:
Luật ngân hàng Nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998, tại điều 18 qui định “ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn”. Nhưng đến ngày 2/8/2000 Ngân hàng Nhà nước mới được công bố và điều hành lãi suất bằng lãi suất cơ bản. Vậy lãi suất cơ bản là lãi suất như thế nào, điều hành ra sao...
Lãi suất cơ bản:
Nội dung và yêu cầu của lãi suất cơ bản:
Lãi suất cơ bản là lãi suất do ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh.
Nội dung lãi suất cơ bản bao gồm:
Lãi suất thực.
Tỷ lệ lạm phát.
Tỷ lệ chi phí bình quân của các ngân hàngthương mại.
Yêu cầu cho lãi suất cơ bản:
Phải phản ánh được nhu cầu tín dụng trong toàn bộ nền kinh tế, trong đó phải phân biệt đâu là nhu cầu thực, đâu là nhu cầu đầu cơ để có khả năng chống đầu cơ ở thị trường tài chính đang là nguy cơ gây ra khủng hoảng tiền tệ kéo theo khủng hoảng kinh tế.
Phải thể hiện được chính sách của nhà nước dùng lãi suất để tác độnh tới kinh tế nói chung và tình hình tiền tệ nói riêng. Nhưng không phải là chính sách nặng nề thắt chặt tiền tệ như thời gian qua.
Phải tương thích với lãi suất các nước trong khu vực và rộng ra trên thế giới để vừa thu hút được vốn tín dụng từ bên ngoài, vừa không rơi vào những sai lầm chính sách như các nước bị khủng hoảng tiền tệ vào nanh vuốt của đầu cơ.
Lựa chọn loại lãi suất làm lãi suất cơ bản:
Chọn lãi suất vay tái cấp vốn (hay lãi suất tái chiết khấu) làm lãi suất cơ bản: Đây là lựa chọn chủ yếu của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Tuy nhiên đối với Việt Nam hiện nay chưa được áp dụng vì một số lý do như: không phù hợp luật; nghiệp vụ tái chiết khấu của ngân hàng Nhà nước chưa phát triển; chưa có sự phôí hợp đồng bộ với các công cụ chính sách tiền tệ khác...
Chọn lãi suất tiền gửi tối đa: các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi mức khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất tiền vay cụ thể với cung cầu về vốn. Thực chất của lãi cơ bản loại này là ngân hàng Nhà nước chỉ công bố và kiểm soát lãi suất tiền gửi tối đa và tự do hoá lãi suất cho vay, việc điều hành và kiểm soát lãi suất cho vay thông qua điều hành lãi suất tiền gửi tối đa và các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ. Lãi suất cơ bản theo cách hiểu này có ưu điểm là tạo ra một bước tiến mới trong chính sách lãi suất, tiến tới tự do hoá lãi suất hoàn toàn, là cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế , tạo ra khả năng cạnh tranh lớn hơn giữa các tổ chức tín dụng, giảm thiểu sự quản lý của Nhà nước bằng mệnh lệnh hành chính. Khống chế lãi suất tiền gửi tối đa sẽ không cho phép các tổ chức tín dụng huy động với bất kỳ lãi suất nào bảo đảm an toàn hệ thống và bảo vệ lợi ích của người gửi tiền. Đồ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status