Sự độc đáo của Đường thi được biểu hiện trong thơ Lý Bạch - pdf 28

Download miễn phí Tiểu luận Sự độc đáo của Đường thi được biểu hiện trong thơ Lý Bạch



Bài thơ “Ý xuân” với ba câu đầu nặng cảnh nhẹ tình. Cỏ được đối với Dâu, Yên được đối với Tần. Dâu thì sinh ra tơ thành sợi tơ tình. Ông tơ bà nguyệt xe duyên họ nên được “xum xuê” hạnh phúc. Song, chiến tranh làm đôi lứa chia lìa: kẻ Yên người Tần.Trong thời buổi rối ren, chàng nơi biên cương khói lửa - thiếp ở chốn khuê phòng lạnh lẽo. Chàng mải mê cung ngựa, thiếp vò võ cô sầu. Khi chàng nghĩ đến ngày về thì cũng là lúc lòng thiếp đã tái tê.Tác giả ước muốn mượn cái vô hình là “gió” để chàng gửi gắm nỗi nhớ thương vào cơn gió ấy chăng? Không hẳn thế. Mà ở đây sự chờ đợi, nỗi mong mỏi vốn đã lạnh lẽo đến độ gần như băng giá nay lại thêm ngọn “gió xuân”, “len lỏi vào trong màn là” lại càng nhân lên thêm nỗi nhớ nhung mà vẫn thuỷ chung, cam chịu. Tuổi trẻ mơn mởn cành tơ, nhưng không được đáp ứng, không được thụ hưởng cái tình cảm mà lẽ ra họ đương nhiên được hưởng nên nỗi đau xa cách càng thấm thía. Bài thơ “Ý xuân” không nói một từ nào về tình yêu lứa đôi. Nhưng đằng sau nó ẩn chứa, bao hàm một tình yêu trĩu nặng, thuỷ chung của hạnh phúc lứa đôi. “ Ý xuân” là một trong những bài thơ hay và độc đáo trong Đường thi.
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


ộng cho dân, thực hành các phép tô dung điệu (đóng thuế bằng thóc, vải lụa, công lao động), điều hoà mâu thuẫn giai cấp làm cho cho nhà nước và dân cùng có lợi.
Về đối ngoại
Đã bắt tay với hơn 40 nước trên thế giới, nền kinh tế phát triển, là nhà nước giàu, có vũ khí hiện đại.
3. Về văn hoá - xã hội
Thời đó, các môn âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc, thư pháp...cũng phát triển. Trong đó hội họa và văn học là phát triển nhất, trong văn học thì thơ là bộ phận có thành tựu cao, ảnh hưởng lớn. Đồng thời nhà Đường có chính sách chiêu hiền đãi sĩ, góp phần làm cho thơ ca phát triển; ở thời kỳ này nhà Đường lấy thơ ca làm đề tài trong thi cử. Chính vì vậy cùng các ngành khoa học khác, từ đời nhà Đường thơ ca phát triển rực rỡ.
Phần II
Nội dung
Chương I: Sự độc đáo của thơ Đường
Theo bộ “Toàn Đường Thi” thì thơ Đường có 900 quyển, in thành 30 tập, gồm 48.900 bài của 2300 tác giả. Con số lớn này chưa phải là con số cuối cùng của toàn bộ thơ thực có ở đời Đường vì nó được sưu tập sau hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử. Nhưng đó mới nói về lượng, cái quan trọng hơn là chất lượng, nội dung và nghệ thuật của thơ Đưòng.
1. Giá trị
Thơ Đường phản ánh một cách toàn diện xã hội đời Đường, thể hiện quan niệm nhận thức, tâm tư ... của con người đời Đường một cách sâu sắc. Nội dung phong phú được thể hiện bằng hình thức hoàn mĩ. Thành tựu trên các phương diện của thơ Đường đều đạt tới đỉnh cao.
Thơ Đường là sự kế thừa và phát triển cao độ của thơ ca cổ điển Trung Quốc. Nó là Tập đại thành của thi ca Trung Hoa cho nên những phương tiện thi pháp thơ cổ điển Trung Quốc được biểu đạt tiêu biểu. Trong cuốn Hán văn học sử yếu Lỗ Tấn viết: Văn xuôi và thơ Trung Quốc đến Đường thì có một sự biến đổi lớn.
Sự đột biến này không phải là một áp đặt từ bên ngoài mà thực chất là một kết quả của một quá trình tích luỹ lâu dài những kinh nghiệm. Hơn 10 thế kỷ, thơ ca đã đạt đến sự chín muồi. Sự đột biến này thể hiện rõ kiểu tư duy nghệ thuật mới mẻ, độc đáo, tạo nên các mốc quan trọng trên con đường phát triển của thơ ca cổ điển Trung Quốc
2. Thể loại
Thơ Đường gồm 2 loại chính: ngũ ngôn và thất ngôn (câu 5 chữ, câu 7 chữ). Mỗi loại gồm 3 thể: Cổ phong, Tuyệt cú, Luật thi
* Cổ phong (còn gọi là cổ thể): là lối tự do hơn cả, miễn có vần không cần niêm luật, đối. Số câu không nhất định, số chữ không gò bó.
* Luật thi (còn gọi là cận thể, kim thể): mỗi bài phải có 8 câu (5 chữ, 7 chữ); 5 vần, 4 liên, bằng trắc trong câu 2 - 4 - 6; các câu 3 - 4, 5 - 6 phải đối (đối ý, đối thanh)
* Tứ tuyệt (còn gọi là tuyệt cú): mỗi bài cũng hạn 4 câu, mỗi câu cũng phải theo luật bằng trắc, nhưng không cần đăng đối chặt chẽ.
Đó là 3 thể của hai loại chính. Ngoài 2 loại chính ấy ra, còn có phủ thi là thơ làm để phổ nhạc, hát được và bài luật là luật thi kéo dài. Trong các loại đó, luật thi là tiêu biểu của thơ Đường.
3. Nội dung và phong cách
Người ta thường chia thơ Đường làm 4 phái:
* Phái biên tái: Đề tài chủ yếu là cuộc sống nơi biên ải. Hai nhà thơ tiêu biểu là Cao Thích và Sầm Tham.
* Phái điền viên: Đề tài chủ yếu là cuộc sống ẩn dật nơi thôn dã, với 2 nhà thơ tiêu biểu: Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên
* Phái lãng mạn:Thường thông qua ước mơ táo bạo để đối lập với hiện thực đen tối, phong cách hào phóng bay bổng. Nhà thơ tiêu biểu là Trích tiên Lý Bạch.
* Phái hiện thực: Đề tài cuộc sống đẫm máu và nước mắt, đầy rẫy bất công ngang trái, với hai nhà thơ tiêu biểu là Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị
4. Quá trình phát triển
Thơ Đường được chia thành 4 giai đoạn
* Sơ Đường (618 - 713)
Bao gồm gần 100 năm đầu đời Đường. Đây là bước đi ban đầu, chuẩn bị cho sự chín muồi của thơ. Thơ thời này còn mang phong vị phong, hoa, tuyết, nguyệt của thơ ca hoa lệ thời lục triều; thơ ca chỉ đổi mới khi Trần Tử Ngang đề xuất phong cách hiện thực (phong cách Hán Ngụy). Thời kỳ này có những nhà thơ nổi tiếng: Vương Bột, Lạc Tân Vương, Lô Chiếu Lân, Dương Quýnh, Đỗ Thẩm Ngôn (ông nội Đỗ Phủ).
* Thịnh Đường (713 - 766)
Đây là giai đoạn chín muồi của thơ Đường. Khoảng 50 năm, trải qua những niên hiệu nổi tiếng trong lịch sử nhà Đường: Khai Nguyên, Thiên Bảo, Đại Lịch, các nhà thơ lớn đời Đường chủ yếu xuất hiện ở giai đoạn này: Vương Xương Linh, Cao Thích, Lý Bạch, Đỗ Phủ....
* Trung Đường (766 - 827)
Khoảng 60 năm, từ Đại Lịch đến Thái Hoà mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc. Loạn An Sử tuy đã bị dẹp nhưng nhà Đường không trở lại được những điểm huy hoàng thời trước nữa. Một số nhà thơ xoay lưng với hiện thực, sáng tác những vần thơ ai oán. Nhưng một số nhà thơ khác, đứng đầu là Bạch Cư Dị vẫn tiếp tục truyền thống Đỗ Phủ, sáng tác những vần thơ phóng dụ đặc sắc.
* Vãn Đường (827 - 904)
Từ Thái Hoà trở đi nhà Đường dần dần suy sụp. Một số nhà thơ chú trọng lời lẽ uyển chuyển ít có ý nghĩa xã hội, tiêu biểu là Lý Thương ẩn và Đỗ Mục.
Như vậy có thể lấy nhận định của nhà Hán học Ngô Tất Tố để khái quát diễn biến của thơ Đường: Sơ Đường phần nhiều hay về khí cốt, nhưng lối dùng chữ, đặt câu chưa được trau chuốt cho lẵm. Vãn Đường giỏi về từ ngữ, lời đẹp ý sâu nhưng lại thiếu phần hùng hồn, có khi còn bị cái tội uỷ mị là khác. Duy chỉ có Thịnh Đường ở vào giữa hai thời kỳ ấy, cho nên chẵng những không có cái dở của hai thời kỳ kia mà còn gồm cả cái hay của hai thời kỳ ấy nữa.
Trong số các nhà thơ của 4 giai đoạn nói trên, nổi bật lên ba nhà thơ lớn: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.
5. Đặc điểm
Thơ Đường gợi mà không tả, gửi gắm mà không phân tích - bình luận, nó có một khoảng trống tạo liên trường- liên tưởng để người đọc tự kết luận lấy. Cái tui trong thơ Đường thường hoà vào thiên nhiên ngoại cảnh nên nó vô cùng kín đáo. Ngôn ngữ thì hàm súc cô đọng, nghe được cái vô thanh trong thơ Đường mới nghe được cái cần nghe, thấy được cái vô hình mới thấy được cái cần thấy. Chỗ không vẽ trong thơ Đường cũng là hoạ, dùng số ít để biểu hiện số nhiều và ngược lại. Dùng cái vô cùng để biểu hiện cái hữu hạn và ngược lại, dùng cao để nói thấp - dùng thấp nói cao.
Chương II: Sự độc đáo trong thơ Lý Bạch
Sinh thời và lớn lên trong thời nhà Đường, gia đình sống chủ yếu bằng buôn bán nhưng ngay từ nhỏ Lý Bạch đã thích bói toán, khi còn ít tuổi ông đã đọc và bình được văn xuôi, 15 tuổi ông đã làm được thơ hay. Ngoài hai mươi tuổi, ông chu du thiên hạ với quãng thời gian gần bằng tuổi đời vốn có của mình. Thơ gần với đời, gần với văn xuôi để ôm chứa mọi việc đời, chuyện người. Lý Bạch cũng vậy, thơ ông lãng mạn phóng túng mà hàm súc. Ông sống và làm thơ bằng cái “Tôi” ngang tàng phá phách, cái ‘Tôi” ngạo nghễ với đời, cái tui biểu hiện lý tưởng của con người:
“Tóc trắng ba ngàn trượng
Và buồn dài ra sao”
1. Thơ về đề tài đất nước
Cái lý tưởng ấy, con người ấy rất Lý Bạch, thơ ông là sự thể hiện nhân tình thế thái, là nỗi niềm tâm sự đối với đồng loại, với mọi vật của tạo hoá. Vì triều đình muốn biến ông thành kẻ bồi bút, làm thơ để ca tụng triều đình, ngợi ca thời đại, nhưng ông làm thơ bằng cảm hứng, bằng nỗi lòng và trách nhiệm đối với nhân loại. Biểu hiện hoài bão lớn lao của đấng nam nhi đội trời đạp đất, mang nặng cái chí khí của người quân tử, đem tài năng của mình ra những mong làm cho đất nước thái bình thịnh trị. Ông lo cho dân cho nước, buồn với cái cái buồn thế kỷ, tình yêu quê hương non nước ấy được thể hiện trong bài thơ “Tĩnh dạ tư”:
“Bên giường vừa lọt ánh trăng
Trông ra mặt đất ngỡ rằng hơi sương
Ngẩng đầu ngắm ánh gương vàng
Cúi đầu hồi tưởng mơ màng non quê”
Bài thơ gồm: thi, nhạc, hoạ, nói lên sự trăn trở của tác giả, “hơi sương” ám chỉ thời gian mà tác giả ngồi đó cùng đêm để vẽ nên bức tranh cảnh lồng cảnh, cảnh trong tình.Tác giả dùng từ chỉ nơi chốn “Bên giường”, ý muốn nói rằng vào cái thời điểm ấy tất thảy mọi người đều chung một nơi chốn “cái giường” nhưng để ngủ chứ không như Lý Bạch. Ông lên giường để tưởng nhớ quê hương mà trong đó dùng các gam màu “ánh trăng”, “hơi sương”, “gương vàng” để ấn định thời gian. Một bức tranh vô cùng yên tĩnh nhưng đằng sau bức tranh lại làm động lòng người - tình người lai láng, tâm trạng bàng hoàng bất an -lo lắng, day diết. Trong các đầu câu ông biểu hiện tâm trạng bằng “ Trông, Ngẩng, Cúi”. Tuy bị bọn quyền quí dèm pha, chèn ép không thể thực hiện nguyện vọng chính trị được, nhưng trong thơ ca của ông, Lý Bạch đều nói lên lòng yêu tổ quốc tha thiết, lòng thông cảm với nhân dân, và ông đã lấy nghệ thuật giãi bày lý tưởng “ cứu giúp dân đen”, “làm yên xã tắc” của ông. Trong sáu bài Tái hạ khúc, ông nhắc đi nhắc lại tư tưởng yêu nước chống ngoại xâm, như:
“Nguyệt chi đành tan hết
Bấy giờ khoẻ tấm thân.
Tung hoành đầy dũng khí
Một trận quỉ yêu tan”
Tư tưởng yêu nước của ông thể hiện mãnh liệt nhất là sau loạn An sử. Lúc bắt đầu loạn, ông đang trên đường từ Tuyên thành qua Lật Dương đến Diễm Trung để lánh nạn, lúc đó ômg làm những câu thơ:
“Tháng ba, Lạc dương bụi hồ bay
Trong thành Lạc dương oán hận đầy
Thiên tân nước chẩy sông như máu
Xương trắng ngổn ngang tựa đống cây”
Phù phong hào sĩ ca
“Bóng cờ che rợp bờ sông nọ
Trống trận thùng thàng núi muốn đổ
Người Tần đến nửa tù đất Yên
Thành Lạc ngựa Hồ đứng gặm...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status