Một số giải pháp phát triển vùng nguyên liệu cho ngành mía đường - pdf 28

Download miễn phí Đề tài Một số giải pháp phát triển vùng nguyên liệu cho ngành mía đường



MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
1. Một số vấn đề lý luận về nguyên vật liệu. 3
1.1. Khái niệm và đặc điểm nguyên vật liệu. 3
1.2. Vị trí của nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp mía đường nói riêng. 3
2. Thực trạng vùng nguyên liệu mía. 5
2.1. Tình hình sản xuất hiện tại ở các nhà máy đường. 5
2.2. Các vùng nguyên liệu mía chính ở nước ta. 7
3. Hiện trạng phát triển các vùng nguyên liệu mía. 8
3.1. Diện tích trồng mía không ổn định. 8
3.2. Chất lượng mía nguyên liệu còn chưa đồng bộ. 8
3.3. Hiện tượng tranh giành nguyên liệu mía giữa các nhà máy vẫn đang xảy ra ở một số vùng nguyên liệu mía. 9
4. Những đánh giá thực trạng vùng nguyên liệu mía của ngành mía đường Việt Nam 11
4.1. Thuận lợi. 11
4.2. Khó khăn và nguyên nhân của nó. 13
5. Giải pháp phát triển vùng nguyên liệu mía 16
5.1. Phân tích chính xác tương quan cung cầu về mía đường trên thị trường. 16
5.2. Quy hoạch, xây dựng và phân bố nhà máy đường và vùng nguyên liệu mía hợp lý 17
5.3. Lựa chọn phương án liên kết kinh tế có hiệu quả cao. 17
5.4. Đẩy nhanh dần điền đồi thừa để hình thành vùng sản xuất nguyên liệu mía tập trung 19
KẾT LUẬN 20
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 21
 
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


mặt chất thì NVL là yếu tố trực tiếp cấu thành thực thể của sản phẩm, chất lượng của NVL ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm. Do đó, đảm bảo chất lượng của NVL cho sản xuất là một biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng sản phẩm. Xét về mặt giá trị thì tỷ trọng của NVL chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu giá thành, còn về mặt tài chính thì vốn bỏ ra mua NVL cũng chiếm tỷ lệ lớn trong vốn lưu động của các doanh nghiệp sản xuất.
Từ đó có thể đưa ra kết luận: NVL không những giữ vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất mà còn giữ vai trò quan trọng trong lĩnh vực quản lý giá thành và tài chính trong doanh nghiệp. Do đó, vấn đề đặt ra là phải cung ứng đúng tiến độ, số lượng, chủng loại, chất lượng và quy cách của NVL.
Trong ngành công nghiệp sản xuất đường ở nước ta thì mía là nguyên liệu chính và chủ yếu trong quá trình sản xuất đường. Nếu không có cây mía thì không thể tiến hành sản xuất đường. Do đó phải đảm bảo nguồn nguyên liệu mía ổn định và đầy đủ đảm bảo cho sản xuất liên tục, tận dụng được hết công suất nhà máy thì hiệu quả kinh doanh mới đạt được. Mặt khác trong cơ cấu giá thành sản xuất đường thì chi phí cho nguyên liệu chiếm tỷ trọng rất lớn (khoảng 70 %) vì vậy vấn đề nguồn nguyên liệu mía phải được coi là vấn đề quan trọng hàng đầu. Trong cạnh tranh ngành đường thì chủ yếu là cạnh tranh qua giá, nếu hạ thấp được giá thành thì khả năng thu lợi nhuận là rất đảm bảo, nâng cao được khả năng cạnh tranh mà nguyên liệu mía là bộ phận quan trọng nhất trong cơ cấu giá thành do đó nếu nâng cao được chất lượng mía, nguồn cung ứng mía đầy đủ và ổn định với mức giá hợp lý thì nhà máy đường sẽ có cơ hội giảm chi phí và phát triển bền vững.
2. Thực trạng vùng nguyên liệu mía.
2.1. Tình hình sản xuất hiện tại ở các nhà máy đường.
2.1.1. Nhiều nhà máy đang sản xuất kinh doanh có lãi nhưng phát triển chưa ổn định.
Thực tế trong niên vụ 2006 - 2007 thì khoảng 90% nhà máy đường có lãi, còn có tới 32/33 nhà máy đường trên tổng số 36 nhà máy đường làm ăn 3 năm đều có lãi. Tuy vậy nếu so với Thái Lan, một nước trong khu vực với nhiều điều kiện tương tự thì giá thành đường của chúng ta còn cao hơn khoảng 500đ/kg. nếu tổ chức quản trị nhà máy hợp lý hơn, chúng ta sẽ hạ được giá thành xuống thấp như Thái Lan; hay nếu mở rộng công suất hơn nữa sẽ kéo giá thành xuống, các nhà máy đường sẽ tồn tại và đủ sức cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thực tế là chúng ta có thể hạ giá thành xuống mức thấp hơn nữa không chỉ nhờ hai phương pháp trên bằng cách hạ thấp chi phí nguyên vật liệu đầu vào. Bởi vì vấn đề nguyên liệu mía của các nhà máy đường vẫn còn nhiều vướng mắc, khó khăn chưa được giải quyết.
2.1.2. Giá cả và nguồn cung ứng nguồn cung ứng nguyên liệu mía còn nhiều biến động.
Năm 2006, xét trong phạm vi cả nước ta có thể nêu ra một số ví dụ điển hình về giá như sau: Sóc Trăng giá mía là 660.000 đồng/ tấn nguyên do là trong những năm trước đó vùng nguyên liệu mía lớn ở Sóc Trăng là Cù Lao Dung do giá mía xuống quá thấp nhân dân không những không có lãi mà nhiều nhà còn phải chịu thua lỗ nên người dân và cán bộ địa phương khuyến khích trồng cây ăn trái, đặc sản để tính đến chiến lược lâu dài. Năm nay, mía được giá, mà diện tích nguyên liệu mía đã bị thu hẹp nên sản lượng mía xuống thấp nên giá mía càng bị đẩy lên cao, người dân trồng mía thu được lãi lớn. Theo cán bộ Phòng nông nghiệp huyện Cù Lao Dung, năm 2006 toàn huyện có khoảng 6500 ha mía, dự kiến thời gian tới sẽ tăng lên 7000 ha do bà con chuyển từ cây ăn trái sang trồng mía. Nếu cứ đà này, nay mai vùng nguyên liệu mía sẽ phình to. Lúc đó khả năng thừa nguyên liệu, giá thấp rất dễ xảy ra. Người dân cần có cách nhìn nhận đúng đắn để tránh tình trạng mía ngọt thành mía đắng.
Ở Nghệ An giá mía 310.000 đồng/tấn. Những năm gần đây bà con nông dân Nghệ An đã mạnh dạn đầu tư thâm canh để trồng mía nên năng suất tăng cao 75 - 80 tấn/ha. Thế nhưng trừ chi phí đầu tư, người nông dân chỉ thu được lãi xuất thấp, nguyên nhân vì trong khi các nhà máy mía nhiều tỉnh thành trong cả nước đã nâng mức giá lên 560 - 600 đồng/kg, thì các nhà máy mía đường trên địa bàn tỉnh lại thu mua với mức giá quá thấp 390 đồn/kg. Đặc biệt ở huyện Con Cuông nhà máy Sông Lam chỉ thu mua với giá 310.000đ/ tấn. Bức xúc, bà con ở đây có nhiều ý kiến đề nghị chính quyền xã, nếu giá mía nhà máy thu mua quá thấp, vụ ép năm tới không bán cho nhà máy nữa. hay nếu kéo mật để bán tính ra cũng đắt hơn, thậm chí chuyển đổi sang cây trồng khác.
Bình Định: 700.000đ/ tấn. Giá mía leo thang là hậu quả của việc nhà máy đường An Khê (Gia Lai) tranh mua nguyên liệu mía với nhà máy đường Bình Định trên vùng nguyên liệu mía của nhà máy đường Bình Định. Do quy hoạch vùng nguyên liệu mía nên đã thu mua với giá rất cao. Các thương lái đã sang các vùng nguyên liệu mía lân cận thu mua mía để bán cho nhà máy đường An Khê đó là nguyên nhân đẩy giá mía ở Bình Định lên cao.
Trong những năm qua chúng ta đã cố gắng ổn định tình hình cung ứng nguồn nguyên liệu mía và thu được một số kết quả khả quan. Nhưng chúng ta cần cố gắng hơn nữa không để bài toán mía đường rơi vào lối cũ những năm trước đó, thời gian mà các nhà máy làm ăn thua lỗ, người dân rơi vào cảnh nợ nần, thậm chí bà con phải chặt phơi khô rồi đốt cây mía do chính mình bỏ công chăm sóc.
2.2. Các vùng nguyên liệu mía chính ở nước ta.
Bảng so sánh diện tích và sản lượng mía các vùng trong cả nước năm 2005
Vùng
Diện tích (%)
Sản lượng (%)
Đồng bằng sông Hồng
0,85
0,8
Đông Bắc
5,1
3,9
Tây Bắc
3,9
3,5
Bắc Trung Bộ
18,4
18,8
Duyên Hải Nam Trung Bộ
17,8
14,2
Tây Nguyên
10,0
8,0
Đông Nam Bộ
18,8
17,9
Đồng Bằng Sông Cửu Long
25,1
32,9
Cả nước
100
100
Quy hoạch vùng nguyên liệu mía dự báo đến 2010
- Tổng diện tích trồng mía: 300.000 ha, trong đó vùng nguyên liệu tập trung là: 250.000 ha.
- Năng suất mía bình quân: 65 tấn/ ha
- Chữ đường bình quân: 11 CCS
- Sản lượng mía: 19,5 triệu tấn.
- Bốn vùng trọng điểm phát triển mía đường có tổng diện tích trồng mía là 222.000 ha (chiếm 74,0% diện tích mía cả nước). Cụ thể:
+ Vùng Bắc Trung Bộ: tổng diện tích trồng mía là 80.000 ha;
+ Vùng Duyên hải Miền trung và Tây Nguyên: Tổng diện tích trồng mía là 53.000 ha;
+ Vùng Đông Nam Bộ: Tổng diện tích trồng mía là: 37.000 ha
+ Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long: Tổng diện tích trồng mía là : 52.000 ha
3. Hiện trạng phát triển các vùng nguyên liệu mía.
3.1. Diện tích trồng mía không ổn định.
Qua các năm ta nhận thấy diện tích trồng mía thường xuyên biến động phụ thuộc vào giá cả thị trường. Khi giá lên người dân phá bỏ các cây khác chuyển sang trồng mía, hậu quả là diện tích trồng mía tăng nhanh dẫn đến sản lượng tăng lên trong khi ở một vùng nguyên liệu mía thường chỉ có một nhà máy đường do đó lương cung mía thừa, nhà máy hoạt động hết công suất cũng không thể tiêu thụ được hết mía nguyên liệu trong vùng dẫn đến giá cả xuống thấp, nhiều người dân trồng mía phải chịu thiệt. Bài học về nguyên liệu mía những năm trước 2003 vẫn còn chưa xa, nhiều người dân không bán được mía đã phải phơi khô rồi đốt bỏ, người dân rơi vào cảnh nợ nần khốn khó. Ví dụ như trường hợp Cù Lao Dung, bà con có thời phá vườn cây ăn trái trồng mía trong lúc mía được giá nhưng đến khi mía rớt giá bà con lại chặt mía trồng cây ăn trái. Năm 2006 mía lại được giá, 7 ha nhãn thu lãi không bằng 1ha mía cho nên diện tích trồng mía lập tức tăng từ 6.500ha - 7.000 ha. Theo cán bộ Phòng Nông nghiệp Cù Lao Dung thì cứ đà này khả năng thừa nguyên liệu, giá thấp rất dễ xảy ra. Hiện nay nhiều vùng nguyên liệu mía đã dần ổn định nhưng tình trạng trên vẫn xảy ra ở nhiều nơi, nhà máy đường, cơ quan chức năng và người dân trồng mía cần phối hợp với nhau chặt chẽ hơn để phát triển ngành mía đường bền vững trên quan điểm các bên tham gia đều có lợi.
3.2. Chất lượng mía nguyên liệu còn chưa đồng bộ.
Chất lượng mía trước hết thể hiện ở chữ đường của mía (đơn vị là: CCS) chất lượng mía ảnh hưởng khá nhiều tới sản xuất đường của nhà máy. Nếu ép cùng một khối lượng mía, thì nguyên liệu mía nào có chữ đường cao sẽ cho sản lượng đường cao hơn nghĩa là tăng được khối lượng sản phẩm đường với cùng một chi phí. Như vậy hiệu quả kinh tế sẽ được nâng lên rất nhiều.
Hiện nay chất lượng mía nguyên liệu còn chưa đồng bộ. Một số địa phương đã hình thành được vùng trồng mía năng suất cao, chữ đường cao nhưng diện tích này vẫn còn chiếm tỷ lệ chưa cao. Chữ đường bình quân chỉ đạt từ 7 - 8 CCS, theo kế hoạch đến năm 2010 chúng ta sẽ nâng chữ đường bình quân lên 10 CCS. Năng suất hiện tại vẫn chưa cao, một số vùng mạnh dạn đầu tư thâm canh để trồng mía, như nông dân Nghệ An, ở đây năng suất bình quân liên tục đạt 75 - 80 tấn/ha, có những vùng trồng mía cao sản năng suất lên tới 120 tấn/ha nhưng nhìn chung đó chỉ là một số điển hình số còn lại năng suất thuộc loại thấp. Nhà nước đặt mục tiêu đến 2010 sẽ đạt năng suất mía nguyên liệu vào khoảng 65 tấn/ha.
3.3. Hiện tượng tranh giành nguyên liệu mía giữa các nhà máy vẫn đang xảy ra ở một số vùng nguyên liệu mía.
Các đây mấy năm từ những năm 2003 - 20...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status