Phương hướng tiếp tục đổi mới công tác KHH ở nước ta trong thời gia tới - pdf 28

Download miễn phí Đề tài Phương hướng tiếp tục đổi mới công tác KHH ở nước ta trong thời gia tới



MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Chương 1: Cơ sở của vấn đề đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam 3
1.1. Kế hoạch hoá ở các nước trên thế giới 3
1.2. Cơ sở thực tiễn của vấn đề đổi mới công tác KHH ở Việt Nam 4
Chương 2: Quá trình đổi mới kế hoạch hoá ở Việt Nam 6
2.1. Thực trạng đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam 6
2.1.1. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 6
2.1.2. Về công tác quy hoạch phát triển 8
2.1.3. Về công tác kế hoạch phát triển 9
2.2. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam 11
2.2.1. Về những cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc đổi mới công tác kế hoạch hoá 12
2.2.2. Về nội dung phương pháp KHH 12
2.2.3. Về phối hợp và điều hoà kế hoạch 13
2.2.4. Về cơ chế điều hành xã hội 13
2.2.5. Về thông tin và dự báo 14
2.2.6. Về bộ máy tổ chức và cán bộ 14
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong đổi mới công tác KHH trong những năm qua ở Việt Nam 14
2.3.1. Nguyên nhân 14
Chương 3: Định hướng và những giải pháp đổi mới kế hoạch hoá trong những năm tiếp theo 16
3.1. Định hướng đổi mới kế hoạch hoá trong những năm tiếp theo 16
3.1.1. Kế hoạch hoá trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN 16
3.1.2. Kế hoạch hoá trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế 16
3.1.3. Kế hoạch hoá phải đảm bảo mối tương quan hợop lý giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội 17
3.1.4. Kết hợp kế hoạch hoá theo ngành với kế hoạch hoá theo địa phương và vùng lãnh thổ 18
3.1.5. Đổi mới toàn diện hệ thống kế hoạch kinh tế vĩ mô 19
3.2. Một số giải pháp đổi mới kế hoạch hoá kinh tế trong thời gian tiếp theo 20
3.2.1. Đổi mới công tác xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 20
3.2.2. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển 20
3.2.3. Chú trọng kế hoạch hoá định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 21
3.2.4.Hoàn thiện kế hoạch hoá hàng năm 22
3.2.5. Tăng cường công tác nghiên cứu và xây dựng chính sách 24
3.2.6. Xây dựng và phát triển công tác dự báo và phân tích kinh tế 24
3.2.7. Đổi mới hệ thống thu thập, xử lý và sử dụng thông tin 25
3.2.8. Củng cố bộ máy tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ kế hoạch 25
Phần kết luận 27
Tài liệu tham khảo.
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


n thuộc về nguồn vốn ngân sách nhà nước. Xoá bỏ việc giao chỉ tiêu pháp lệnh về sản xuất và chỉ duy từ một số chỉ tiêu về lưu thông vật tư, hàng hoá quan trọng nhằm ổn định cung cầu.
Phần lớn các chỉ tiêu kế hoạch hiện nay là chỉ tiêu giá trị, các chỉ tiêu kế hoạch hiện vật nói chung đã được giảm bớt đáng kể đồng thời duy trì một số cân đối hiện vật thiết yếu. Hệ thống cân đối hiện vật thiết yếu như xăng dầu, lương thực đã tỏ ra là cần thiết cho ổn định kinh tế xã hội, các bảng cân đối giá trị ngày càng được mở rộng và nâng cao.
Ngoài xu hứơng "giá trị hoá ", trọng tâm của các chỉ tiêu kế hoạch đang chuyển dần sang điều tiết kinh tế vĩ mô và các chỉ tiêu xã hội .
2.1.3.3. Đổi mới quy trình lập kế hoạch:
Trong thời gian qua, quy trình lập kế hoạch đã có nhiều thay đổi căn bản. Hình thức giao số kiểm tra đã được thay thế bằng việc cung cấp thông tin cần thiết nhằm hướng các ngành, địa phương và đơn vị cơ sở xây dựng, tổng hợp kế hoạch theo hướng mục tiêu chung của nhà nước. Bên cạnh việc cung cấp những thông tin hướng dẫn, Bộ kế hoạch và đầu tư còn cử các đoàn đến các địa phương để hỗ trợ, giúp đỡ và giải quyết các vướng mắc mà các địa phương gặp phải trong khi xây dựng kế hoạch. Quy trình lập kế hoạch mới đã hạn chế sự áp đặt hành chính chủ quan của cấp trên với cấp dưới, phát huy được tính chủ động sáng tạo của các ngành, các cấp chính quyền địa phương cũng như doanh nghiệp trong việc lập và thực hiện kế hoạch .
Trong khi xây dựng và tổng hợp kế hoạch đã chú ý nhiều hơn đến các kế hoạch KH-CN, GD-ĐT, văn hoá- thông tin, y tế, xã hội, thể dục thể thao, xoá đói giảm cùng kiệt mà trước đây thường bị xem nhẹ và chưa gắn với các kế hoạch phát triển kinh tế. Công tác kế hoạch hoá ở các lĩnh vực này sau một thời gian dài xuống cấp, trì trệ thì nay đã có nhiều thay đổi, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế.
Công tác dự báo, thông tin đã bước đầu được tăng cường, phương pháp tính toán kế hoạch được sửa đổi phù hợp dần với thông lệ quốc tế.
2.1.3.4. Đổi mới cách điều hành kế hoạch:
Đổi mới công tác điều hành kế hoạch trong thời gian qua không chỉ được thể hiện ở tính kịp thời, mà còn được thể hiện rõ nét ở việc sử dụng các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô gián tiếp như lãi suất, tỉ giá, thuế suất, định hướng đầu tư của nhà nước Do đó, một mặt sự có thể thiệp trực tiếp của các cơ quan nhà nước vào công việc kinh doanh của các cơ sở kinh tế đã giảm bớt; mặt khác các cơ sở kinh tế đã có nhiều cố gắng trong việc phát huy khả năng tự chủ, xác định những lợi thế cạnh tranh phù hợp với điều kiện thay đổi của thị trường .
Quá trình điều hành kế hoạch hoá (KHH) cũng đã chú ý nhiều hơn đến việc dự báo ngắn hạn, điều chỉnh kịp thời các mục tiêu cũng như các biện pháp kinh tế, sử dụng các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô cũng như sử dụng các cơ chế, chính sách và lực lượng vật chất để đảm bảo các cân đối lớn trong nền kinh tế, định hướng và thúc đẩy thực hiện kế hoạch. Nếu trước đây kế hoạch chủ yếu tập trung vào kinh tế quốc doanh với kế hoạch hoá trực tiếp là chính, thì nay đã bước đầu mở rộng kế hoạch định hướng phát triển toàn bộ nền kinh tế và xã hội, chủ yếu thông qua các KHH gián tiếp.
Công tác điều hành kế hoạch đã có những chuyển biến rõ rệt từng bước đáp ứng yêu cầu đặt ra, các công cụ pháp luật và chính sách kinh tế được phối hợp để tạo ra hành lang cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế chủ động hoạt động và hoạt động một cách có trật tự, đúng pháp luật góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Việc điều hành của chính phủ trong qúa trình thực hiện mục tiêu kế hoạch hàng năm đã có hiệu quả và tác dụng thiết thực, kịp thời xử lý những diễn biến bất thường ở trong nước và quốc tế, góp phần quan trọng cho sự ổn định kinh tế đất nước .
2.2. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam:
Mặc dù việc đổi mới KHH trong thời gian qua có tiến bộ đáng kể nhưng do nhiều lý do, kết quả của đổi mới KHH còn hạn chế, thậm chí cả ở trung ương và địa phương xu hướng giữ lại hay trở lại KHH kiểu cũ vẫn còn khá mạnh, ngay trong một bộ phận của nhà nước và một phần dư luận của công chúng không khí bao cấp còn nặng.
Những hạn chế chủ yếu là:
2.2.1. Về những cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc đổi mới công tác KHH:
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, chúng ta chưa xây dựng được một cơ sở lý luận và phương pháp luận về KHH phù hợp với thực tế đổi mới của đất nước, do vậy không khỏi lúng túng khi thiết kế nội dung kế hoạch cũng như cách điều hành kế hoạch .
Vai trò của nhà nước với tư cách là người điều tiết vĩ mô nền kinh tế nhiều khi bị nhầm lẫn với vai trò nhà nước là chủ đầu tư đã dẫn tới kết quả đó là nội dung kế hoạch còn nặng về phân bổ đầu tư nhà nước mà chưa coi trọng đúng mức việc vận dụng chính sách để huy động các nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác cũng như nguồn lực từ nước ngoài. Vì thế, KHH chưa bao quát, chưa phát huy hiệu lực đầy đủ đvới tổng thể nền kinh tế .
Công tác kế hoạch chỉ được quan tâm đến nhiều ở cấp trung ương, trong khi bộ máy kế hoạch không đủ khả năng có được hệ thống thông tin giám sát ở mọi cấp từ cơ sở, do vậy việc thực hiện nhiều khi diễn ra sai lệch với ý đồ của kế hoạch .
Mối quan hệ giữa bộ KH&ĐT với các bộ khác chưa được tăng cường và đổi mới kịp thời để đáp ứng yêu cầu đổi mới chung của nền kinh tế .
2.2.2. Về nội dung phương pháp KHH:
Việc xây dựng chiến lược phát triển và kế hoạch 5 năm thường được thực hiện nhằm phục vụ mỗi kỳ đại hội Đảng; Sau đó việc thực hiện triển khai các mục tiêu chiến lược và kế hoạch 5 năm thường bị phân cấp, phân tán và chia cắt theo từng ngành, địa phương, chưa có khâu nối đồng bộ chung. Các cấp các ngành quan tâm nhiều nhất đến chỉ tiêu vốn, các chỉ tiêu khác thường bị coi nhẹ.
Mục tiêu kế hoạch vừa nhiều vừa cao hơn khả năng đảm đương cả về năng lực thực hiện lẫn lực lượng vật chất. Nguồn lực hạn chế của nhà nước bị dàn mỏng ra, quá nhiều mục tiêu mang nặng dấu ấn bao cấp và vì vậy được sử dụng kém hiệu quả.
Nhiều nội dung của kế hoạch, đặc biệt là kế hoạch phát triển theo vùng , lãnh thổ còn chưa tính đến đầy đủ các yếu tố hội nhập, quốc tế hoá, cũng như chưa phân tích kỹ lưỡng đến thị trường tiêu thụ trong nước, ngòai nước và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Phần nghiên cứu và vận dụng cơ chế chính sách còn chưa thật tương xứng, chưa cụ thể hoá được chiến lược, chưa bao quát được các thành phần kinh tế, chưa chú ý đúng mức tới đặc thù của các vùng, địa phương. Nhiều vấn đề trong chính sách vĩ mô còn chưa được xác định rõ và nhất quán, các chính sách đòn bẩy còn nhiều lúng túng. Cách thức thực hiện chính sách vẫn mang nặng tính can thiệp hành chính, áp đặt mà chưa chú trọng đến cơ chế thị trường để thiết kế và thực hiện chính sách.
Và một hạn chế lớn nữa đó là sự tham gia quá ít của cộng đồng vào công tác lập kế hoạch. Do đó chưa phát huy được hết những khả năng vốn có trong dân chúng.
2.2.3. Về phối hợp và điều hoà kế hoạch:
Hệ thống kế hoạch theo ngành, theo địa phương và vùng lãnh thổ vẫn chưa liên kết và phối hợp chặt chẽ với nhau được trở thành hệ thống kế hoạch tổng thể kinh tế quốc dân. Sự phân cấp giữa trung ương và địa phương cũng như phân công giữa các ngành với nhau là chưa rõ ràng dẫn đến hậu quả khi gặp phải diễn biến bất thường thì hầu hết là đều đưa lên chính phủ, vì vậy chính phủ luôn phải xử lý công việc trong thế bị động do đó là không có lợi cho nền kinh tế nói chung.
Sự can thiệp trực tiếp thường xuyên của các cơ quan nhà nước nhiều khi lại làm giảm tính ổn định của các chính sách và gây khó khăn cho các nhà kinh doanh.
Việc xây dựng quy hoạch ở nhiều địa phương đạt chất lượng chưa cao, tính thực tế thể hiện chưa rõ nét. Sự phối hợp giữa trung ương và địa phương trong công tác quy hoạch còn kém đã làm cho nhiều địa phương làm lại quy hoạch mặt bằng của mình.
Nhiều chương trình quốc gia chưa được xây dựng chu đáo, không xác định rõ mục tiêu, đối tượng cụ thể được hưởng lợi; Chưa có cơ chế phù hợp cho việc tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát và đánh giá cụ thể. Số lượng chương trình quá nhiều, chồng chéo cả về đối tượng hưởng lợi và địa bàn thực hiện. Trong khi tính “lồng ghép” của các chương trình chưa cao thì xu hướng “chia đều” đã làm giảm đáng kể hiệu quả của các chương trình.
2.2.4. Về cơ chế điều hành xã hội :
Mọi việc trong công tác xây dựng, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch hầu như nằm trong tay chính phủ và một số cơ quan tổng hợp, vì vậy khả năng điều hành cần được tăng cường thích đáng, nếu không thì tính khả thi một số mục tiêu sẽ bị hạn chế.
Cơ chế điều hành cân đối một số sản phẩm chủ yếu, mà thực chất là cân đối hiện vật đã tỏ ra có giới hạn rõ rệt nhất là trong xuất khẩu và kinh tế đối ngoại.
Tình hình thế giới và khu vực đang và sẽ diễn biến phức tạp hơn nhiều trong thời gian tới đòi hỏi công tác KHH, đặc biệt là khâu điều hành kế hoạch phải linh hoạt hơn, đưa ra các quyết sách kịp thời, phù hợp trên cơ sở những luận cứ khoa học và thực tiễn xác đáng.
2...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status