Đề án Trong xu thế hội nhập của thị trường hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam (doanh nghiệp của bạn) phải làm những gì để nâng cao chất lượng hàng hoá và bắt kịp thị trường - pdf 28

Download miễn phí Đề án Trong xu thế hội nhập của thị trường hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam (doanh nghiệp của bạn) phải làm những gì để nâng cao chất lượng hàng hoá và bắt kịp thị trường



MỤC LỤC
 
Lời mở đầu. 1
 
Chương I. Sự cần thiết phải thực thi chiến lược hướng về xuất khẩu. 2
I - Nội dung của chiến lược thay thế nhập khẩu . 3
II. Hạn chế của chiến lược thay thế nhập khẩu . 4
III. Tính tất yếu khách quan thực thi chiến lược hướng vào xuất khẩu. 6
IV. Tác động của quá trình hội nhập hình tế quốc tế đến hoạt động ngoại thương của Việt nam 7
V- Ảnh hưởng của các chính sách trong kinh tế đối ngoại tới hoạt động xuất khẩu của nước ta. 8
VI. Các chính sách thúc đẩy hoạt động xuất khẩu . 15
1. Chính sách thuế ưu đãi đối với hàng xuất khẩu . 15
2. Chính sách tỷ giá hối đoái. 16
3. Chính sách đầu tư đối với doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và tham gia hoạt động xuất khẩu . 17
4. Chính sách, chiến lược xúc tiến xuất khẩu . 19
 
Chương III : Phương hướng thực hiện một số chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu. 22
I.Quan điểm của nhà nước về ngoại thương nói chung về hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. 22
II.Thách thức đối với hoạt động ngoại thương Việt Nam khi tham gia hội nhập. 22
III. Phương hướng thực hiện một số chính sách. 24
1. Chú trọng tới mục tiêu nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, hay nói cách khác bên cạnh tốc độ tăng trưởng cần chú ý hơn chất lượng tăng trưởng. 24
2. Coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại. 25
3. Bảo đảm mục tiêu thâm nhập vào thị trường quốc tế theo nguyên tắc đa phương hoá. 25
4. Hướng tới sự thay đổi căn bản về đối tượng và cách quản lý. 25
5. Một số kiến nghị đối với hoạt động khai thác và đánh bắt thuỷ sản. 25
6. Mục tiêu, nguyên tắc chỉ đạo và chính sách của nhà nước cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản đến 2010. 26
 
Lời kết.28
Danh mục tài liệu tham khảo 29
 
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


g mới cho tăng trưởng xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc chuyển hướng các mặt hàng xuất khẩu đặc biệt là thịt chế biến vào thị trường Liên Xô (cũ) gặp rất nhiều khó khăn. Cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực cũng như sự gia tăng xuất khẩu của Trung Quốc đã làm cho việc xuất khẩu thịt lợn sang thị trường Hồng Kông trở nên bế tắc.
Về quy mô, xuất khẩu của nước ta còn hết sức nhỏ bé xét cả về tương đối lẫn tuyệt đối. Nếu tính bình quân đầu người ngay từ những năm 1986 và hiện lên tới 80-90 tỷ USD. Thái Lan đạt kim ngạch xuất khẩu 10 tỷ từ những năm 1987, hiện lên tới 55-60 tỷ USD. Philipin là nước kém hơn nhưng cũng đạt kim ngạch xuất khẩu 10 tỷ USD vào năm 1992 và hiện nay xấp xỉ 25 tỷ USD. Nếu tính kim ngạch xuất khẩu/đầu người, năm 1996 Malaixia đã đạt 3700 USD, Thái Lan đạt 930 USD và Philipin đạt 285 USD trong khi đó Việt Nam mới đạt 96 USD. Năm 2000 Indolexia đạt 267 USD, Philipin 344 USD, Thái Lan 943 USD, Malaixia 3750 USD, Hàn Quốc 3961 USD, Xingapo 4167 USD, VIệt Nam 150 USD/đầu người.
Thực tế cho thấy, nguy cơ này xa hơn là hiện thực nếu như chúng ta không có giải pháp để tạo ra những chuyển biến cơ bản cho hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và cho xuất khẩu nói riêng. Như trên đã phân tích một trong những nguyên nhân chủ quan quan trọng gây ra hiện tượng tốc độ xuất khẩu ngày một chậm dần là do cơ cấu mặt hàng ít có sự thay đổi căn bản.
Trong thời gian qua, việc chuyển dịch cơ cấu diện ra chủ yếu nhờ tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu của bốn nhóm hàng : dệt may, giầy dép, sản phẩm gỗ tinh chế và điện tử (bao gồm cả linh kiện máy tính ). Trong số này chỉ có sản phẩm gỗ tinh chế là đạt hàm lượng nội địa cao các nhóm hàng còn lại chủ yếu dựa vao phương pháp gia công hàm ưlợng nội địa tương đối thấp.
Song một điều không thể phủ nhận khi nhìn lại trong thời gia qua cơ cấu nhóm, mặt hàng xuất khẩu vẫn tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng đã qua chế biến, nhất là chế biến sâu. Nếu nh năm 1991, hàng nguyên liệu thô chiếm trên 92%thì nay chỉ còn 60% kim ngạch xuất khẩu. Hàng chế biến trong đó có hàng chế tạo năm 1991 chỉ chiếm khoảng 8% thì đến năm 2000 đã tăng lên 40%. Nhóm hàng nông lâm thuỷ-hải sản năm 91 chiếm 53% đến nay xuống còn 36,5%, nhóm hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 91 chiếm 47%, năm 2000 đã lên tới 63,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Nhóm hàng xuất khẩu ngày càng được mở rộng đã có 16 nhóm mặt hàng hoàn toàn mới và khoảng 20 nhóm mặt hàng lần đầu tiên thâm nhập vào một số thị trường. Nếu như năm 1991 mới có 4 nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực là dầu thô, thuỷ-hải sản, gạo và dệt may thì đến năm 2000 đã có thêm 8 mặt hàng chủ lực mới là cà phê, cao su, điều, giầy dép, than đá, hàng điện tử, hàng thủ công mỹ nghệ và rau quả. Tuy nhiên tuỳ từng trường hợp vào diễn biến của thị trường quốc tế mức đóng góp của mỗi mặt hàng chủ lực trong từng năm có khác nhau. Nếu hàng dệt may, giầy dép, thuỷ sản, cà phê, hạt điều đóng góp lớn vào việc tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của năm 97(26,6%) thì đầu năm đến nay đến lượt dầu thô, thuỷ sản, máy tính điện tử, thủ công mỹ nghệ, rau quả đóng vai trò tiên phong trong việc tăng trưởng giá trị suất khẩu. Theo Tổng cục Thống kê tỷ trọng đóng góp vào tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong mời tháng qua của dầu thô là 51%; thuỷ sản là 16,3%; máy tính điện tử là 7,3%.
Một điều nữa đáng ghi nhận là từ đầu năm đến nay nhóm hàng nông sản của Việt Nam (trừ gạo) luôn tỏ ra sung sức về khả năng sản xuất và có mức xuất khẩu ngày một tăng. Trong năm vừa qua, cả nước xuất khẩu 74000 tấn lạc nhân (tăng gần 47%); 214000 tấn cao su (tăng 18,3%) ; 543000 tấn cà phê (tăng 65,4%) đã vượt kế hoach cả năm 8,5%; 34000 tấn chè (tăng 36% so với cùng kỳ năm ngoái). Đặc biệt lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trong năm qua không những vượt ngưỡng một tỷ mà còn đạt 1,16 tỷ USD tăng 49.45% so với cùng kỳ năm trước, vượt 6% so với kế hoạch năm. Kết quả xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp chế tác từ đầu năm đến nay vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá. Kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may trong mười tháng qua đạt trên 1.516 tỷ USD ( tăng 4.4% so với cùng kỳ năm trước), giầy dép đạt 1.163 tỷ USD tăng 5.2%, hàng thủ công mỹ nghệ đạt gần 200 triệu USD tăng gần 49% và vượt kế hoạch năm 10.6%, điện tử đạt 132 triệu USD tăng 9%, máy vi tính đạt 518 triệu USD tăng 38.6% so với cùng kỳ năm trước.
Theo ông Lê Đức Gia-Phó vụ Trưởng Vụ tổ chức Bộ thương mại ba nhóm hàng nêu trên có tầm quan trọng như ba chân kiềng của hoạt động xuất khẩu nớc ta. Ông nhận định : “hàng năm do nhiều yếu tố khác nhau có thể nhóm hàng này tăng nhóm hàng kia giảm nhưng nếu biết phát huy để bù trừ cho nhau thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trưởng bền vững”.
Nếu như trên phân tích cho rằng một trong những nguyên nhân quan trọng của hiện tượng tốc độ tăng trưởng giảm dần là do cơ cấu hàng xuất khẩu chưa có những thay đổi trên tất cả các mặt hàng mà chủ yếu nhờ tăng nhanh kimh ngạch của bốn nhóm hàng cơ bản : dệt may, giầy dép, sản phẩm gỗ tinh chế và điện tử thì vấn đề thị trường xuất khẩu là lời giải cho câu hỏi vì sao cơ cấu hàng xuất khẩu có sự thay đổi tích cực mà tổng kim ngạch xuất khẩu vẫn tiềm ẩn nguy cơ tăng trưởng chậm.
Hiện nay, nước ta đã có quan hệ thương mại với hơn 60 nước và có thoả thuận đối xử tối hậu quốc (MFN) với 68 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Sự tan rã của khối SEV dẫn tới những thay đổi lớn trong cơ cấu thị trường xuất khẩu của nước ta thể hiện : Liên Xô (cũ) và Đông Âu, Việt Nam chỉ còn chiếm gần 2% kim ngạch xuất khẩu đạt 230 triệu USD. Do đó, Châu á trở thành thị trường xuất khẩu chính ở nước ta. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cho thị trường này tăng từ 26,73% vào năm 1989 lên 43,29% vào năm 1990 và năm 1991 tăng lên tới 76,73% và luôn duy trì trong khoảng 72-74% từ đó đến nay. Trong đó Nhật Bản và ASEAN đóng vai trò lớn ( Nhật Bản chiếm 15,8%; các nước ASEAN chiếm 21,3%). Nhìn chung, cơ cấu thi trường xuất khẩu đã có những chuyển hướng tích cực. ở khu vực Châu á- Thái Bình Dương do các thị trường trong khu vực đang trên đà khôi phục, sức mua tăng lên một số mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu tăng lên ( điện tử, lương thực, thực phẩm).
Khu vực Âu- Mỹ hàng năm nước ta xuất siêu trên 2000 triệu USD. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là: hàng may mặc, giầy dép, thuỷ sản, cao su.
Với thị trường Tây-Nam A-Châu Phi quan hệ kinh tế-thương mại giữa Việt Nam và khu vực này chưa được phát triển đáng kể, mặc dù ta có khả nâng xuất khẩu gạo, chè. đồ điện tử, hàng may mặc, giầy dép có thể nhận định rằng đây là khu vực còn nhiều tiềm năng để khai thác nếu sử lý tốt vấn đề thông tin, xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm.
Bên cạnh nước ta là Trung Quốc, sự gia tăng của Trung Quốc là một hạn chế gây ảnh hưởng rất lớn cho thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu chính sang Trung Quốc tăng từ 340, 2 triệu USD năm 1996 lên 858,9 triệu USD vào năm 2000.
Tỷ trọng xuất khẩu sang EU nói riêng và Châu Âu nói chung tăng dần trong những năm qua. Năm 1991, EU mới chiếm 5 - 6% kim ngạch xuất khẩu thì đến nay đã tăng lên 21,7%.
Nhìn chung quá trình chuyển dịch cơ cấu thị trường suất khẩu đã diễn ra tương đối tốt trong thời gian qua, góp phần đáng kể vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng kim ngạch suất khẩu sau khi mất đi thị trường truyền thống. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này chưa được định hướng trên tầm nhìn dài hạn, chủ yếu mới là sự thích ứng với thay đổi đột biến của tình hình và vì vậy đã nhanh chóng bộc lộ những điểm yếu. Từ chỗ trước đây phụ thuộc chủ yếu vào buôn bán với hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) xuất khẩu nước ta hiện nay lại phụ thuộc lớn vào thị trường Châu á. Dẫn đến cơ cấu thị trường nước ta hiện nay vẫn thiên lệch, thậm chí trên phương diện nào đó còn thiên lệch hơn cả trước đây.
Thị trường nước ta mới chỉ có chiều rộng mà chưa có chiều sâu, hàng hoá và dịch vụ của nước ta chưa chiếm đước thị phần lớn tại các thị trường đã xâm nhập được, thậm chí còn bị mất chỗ đứng trên một số thị trường. Một hạn chế nữa là ở một số thị trường có dung lượng hàng hoá và dịch vụ của ta chưa có mặt, việc tìm kiếm, mở rộng thị trường còn có phần thụ động, hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư để xâm nhập thị trường chưa được quan tâm đúng mức.
Mặt khác, việc chậm trở lại với thị trường truyền thống và mở lối để “ lách chân” vào các thị trường khác trong những năm gần đây thể hiện sự bất cập trong chính sách bạn hàng xuất khẩu của nước ta. Như vậy, mặc dù chúng ta chủ trương đa phương hoá thị trường, đa phương hoá quan hệ nhưng trên thực tế lại thiếu những chính sách và giải pháp cụ thể thúc đấy quan hệ đó.
Bên cạnh những chuyển động về cơ cấu thị trường, cơ cấu chủ thể tham gia hoạt đông xuất khẩu cũng có những thay đổi lớn trong những năm vừa qua. Cơ chế xuất nhập khẩu đẫ được đổi mới một cách cơ bản, chuyển từ cơ chế nhà nước độc quyền ngoại thương sang cơ chế mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho cacs địa phương, các ngành và các thành phầ kinh tế; từ cơ chế hành chính mệnh lệnh sang sự vận hành theo cơ chế thị trường định hướng ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status