Phương hướng, biện pháp xây dựng các Tổng công ty thành các tập đoàn kinh tế lớn mạnh - pdf 28

Download miễn phí Chuyên đề Phương hướng, biện pháp xây dựng các Tổng công ty thành các tập đoàn kinh tế lớn mạnh



MỤC LỤC
 
 Trang
Đặt vấn đề 1
I/ Sự cần thiết phải xây dựng các tổng công ty thực sự trở thành các tập đoàn kinh tế lớn mạnh 2
1. Các Tổng công ty Nhà nước có quy mô lớn (Tổng công ty 91, 90) là công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa 2
2. Thành lập các Tổng công ty Nhà nước là một biện pháp để sắp xếp lại các DNNN 3
3. Thí điểm thành lập các Tổng công ty Nhà nước theo hướng hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế mạnh là một chủ trương đúng đắn của Nhà nước ta 3
II/ Tổng kết lại mô hình Tổng công ty Nhà nước 4
1. Mô hình tổ chức Tổng công ty Nhà nước 4
2. Các kết quả bước đầu 5
3. Những vấn đề đặt ra trong hoạt động sản xuất của Tổng công ty 7
III/ Phương hướng và giải pháp cần làm để củng cố và phát triển các Tổng công ty 11
1. Chấn chỉnh bộ mấy tổ chức của HĐQT và xử lý lại mối quan hệ giữa chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc 11
2. Xử lý mối quan hệ giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên và giữa các đơn vị thành viên với nhau 13
3. Hoàn chỉnh đồng bộ cơ sở pháp lý quy định về quản lý Nhà nước, thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN nói chung và các Tổng công ty 90, 91 nói riêng. 13
4. Cần tiếp tục sắp xếp lại cơ cấu tổ chức các Tổng công ty và cơ cấu các đơn vị thành viên 14
5. Mở rộng các kênh huy động vốn 15
IV/ Phương hướng, biện pháp xây dựng các Tổng công ty thành các tập đoàn kinh tế lớn mạnh 15
1. Xây dựng đúng đắn chiến lược kinh doanh và phát triển của Tổng công ty và công ty thành viên 17
2. Tổ chức lại cơ cấu sản xuất kinh doanh và cơ cấu quản lý phù hợp với chiến lược kinh doanh và phát triển Tổng công ty đã xác định 18
3. Xác định đúng đắn định hướng đầu tư phát triển và đổi mới công nghệ chủ lực của Tổng công ty 19
4. Tổng công ty thực hiện tốt chức năng quản lý thống nhất các hoạt động xuất nhập khẩu sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ 20
5. Quản lý chặt chẽ thống nhất có hiệu quả hoạt động tài chính của Tổng công ty 21
6. Phối hợp đồng bộ và nâng cao hiệu lực hoạt động của hội đồng quản trị, cơ quan Tổng giám đốc và ban kiểm soát 22
7. Phát triển và quản lý chặt chẽ các nguồn lực của Nhà nước trong các doanh nghiệp liên doanh và công ty cổ phần 23
8. Bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các Bộ, Tỉnh, Thành phố trong việc quản lý Nhà nước đối với các Tổng công ty 24
Kết luận 26
 
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


òn nhiều vướng mắc trong các quyết định về quyền thay mặt chủ sở hữu tài sản Nhà nước trong DNNN, vai trò và trách nhiệm của Chủ tịch HĐQT chưa được xác định rõ nên đôi khi vẫn chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa HĐQT và ban TGĐ. Cùng một số vốn được giao nhưng cả Chủ tịch HĐQT và TGĐ đều phải ký nhận. Như vậy, trách nhiệm thì tập thể nhưng người điều hành chỉ là Tổng giám đốc. HĐQT tuy có trách nhiệm giám sát nhưng vốn của các DNNN lại không thuộc quyền sở hữu của mình. Do đó, trách nhiệm và quyền hạn của HĐQT cũng bị giới hạn. Hiện nay, giám đốc của các doanh nghiệp thành viên chủ lực hầu hết chưa tham gia HĐQT của Tổng công ty vì muốn tách chức năng quản lý và chức năng điều hành, nhưng thực tế hai chức năng này gắn bó tới hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty. Có nơi HĐQT trong khi chưa thực hiện tốt chức năng. Chủ yếu như xây dựng chiến lược, quyết định dự án đầu tư, lựa chọn cán bộ nhưng lại sa vào lĩnh vực điều hành của Tổng giám đốc. Có nơi Tổng giám đốc quyết định các vấn đề thuộc quyền hạn của chủ tịch HĐQT. Lại có nơi chủ tịch HĐQT lại bao biện công việc điều hành của giám đốc. Thực tế hiện nay cho thấy, nơi nào uy tín và trình độ của chủ tịch HĐQT cao hơn thì thường can thiệp vào hoạt động kinh doanh, lấn quyền của giám đốc, biến HĐQT thành cơ quan chủ quản của doanh nghiệp. Ngược lại, nơi nào trình độ và uy tín của Tổng giám đốc cao hơn thì vai trò của HĐQT trở lên mờ nhạt. Sở dĩ có tình trạng trên là vì quyền hạn và trách nhiệm ở đây được phân công không xuất phát từ lợi ích kinh tế mà hoàn toàn xuất phát từ năng lực quản lý hành chính.
3.2. Mối quan hệ giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên và giữa các đơn vị thành viên với nhau.
* Sự dính kết “hữu cơ” giữa các doanh nghiệp thành viên với Tổng công ty chưa thực sự tồn tại; động lực xây dựng Tổng công ty đối với các đơn vị thành viên bị thả nổi, không phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn Tổng công ty.
Sau khi tham gia vào Tổng công ty, các DNNN thành viên hầu như hạch toán độc lập. Họ phải tự “xoay sở”, tự lo công ăn việc làm, tự lo lỗ, lãi, các Tổng công ty gần như không có vai trò gì. Đặc biệt sau khi Chính phủ ban hành nghị định số 44/1998/NĐ - CP (ngày 29/6/98) và việc chuyển DNNN thành Công ty cổ phần, một số doanh nghiệp trong các Tổng công ty Nhà nước đã được thí điểm tiến hành cổ phần hoá. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp này đã tách hoàn toàn khỏi sự kiểm soát của Tổng công ty và hoạt động theo một luật mới: luật công ty.
Theo số liệu điều tra ở TPHCM và Hà Nội thì chỉ có khoảng 13% các doanh nghiệp (mà đa phần là nhỏ hay hoạt động chưa có hiệu quả) là cần có Tổng công ty. Điều này cho thấy mô hình Tổng công ty chỉ có một phần tác dụng với một số doanh nghiệp chưa khẳng định được trên thị trường và một số các doanh nghiệp đặc thù. Còn phần lớn các doanh nghiệp khác thì mô hình Tổng công ty là không cần thiết và không ít doanh nghiệp đang mong muốn “độc lập” với cả Tổng công ty.
Điều này cho thấy, sự điều hành của Tổng công ty với các công ty thành viên chưa đem lại hiệu quả cao, chưa hội tụ được các anh tài từ các công ty về với Tổng công ty. Hiện tại có không ít ý kiến đề nghị trực tiếp hay gián tiếp xem xét lại mô hình tổ chức Tổng công ty và điều lệ hoạt động của nó.
Ngoài ra, chính tư tưởng độc lập theo nghị định 388/HĐBT đã làm một số đơn vị thành viên của các Tổng công ty không liên kết được với nhau, hoạt động rời rạc, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn Tổng công ty. Thậm chí các doanh nghiệp thành viên còn cạnh tranh lẫn nhau, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước.
* Khác với các tập đoàn kinh tế của nước ngoài, mối quan hệ giữa “công ty mẹ” và “công ty con” là mối quan hệ mang tính hữu cơ chặt chẽ, “công ty mẹ” chi phối hoạt động của công ty con bằng các quan hệ tài chính, thị trường, ở các Tổng công ty của Việt Nam, mối quan hệ này chỉ mang tính “hành chính”, “cơ học”. Tổng công ty điều hành hoạt động của các doanh nghiệp thành viên bằng các quyết định, bằng các ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp với Tổng công ty. Điều này phản ánh một thực trạng là, nếu Tổng công ty thực hiện vai trò của mình thì vô hình chung nó đã biến mình thành cấp chủ quản cản trở hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên.
Sở dĩ có mâu thuẫn trên là vì các Tổng công ty Nhà nước được thành lập chủ yếu bằng con đường hành chính tổ chức chứ không áp dụng những yếu tố của kinh tế thị trường. Theo cách thức này, các DNNN trong cùng một ngành được gom góp lại và được tham gia vào một tổ chức gọi là Tổng công ty Nhà nước. Có những DNNN tham gia vào Tổng công ty không phải là tự nguyện mà bị gò ép, họ thậm chí không có quyền quyết định vận mệnh của chính mình. Tất cả những điều này đã không tạo ra được sự gắn kết cần thiết giữa các đơn vị thành viên với Tổng công ty và do đó không phát huy được sức mạnh tổng hợp của Tổng công ty.
3.3. Thiếu sự phân công, phân cấp cụ thể, rõ ràng về quản lý Nhà nước và thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN giữa chính phủ với Bộ quản lý ngành, Bộ chức năng và UBND cấp tỉnh, cấp huyện nên mối quan hệ giữa Tổng công ty với các cơ quan quản lý Nhà nước rất phức tạp, có quá nhiều đầu mối, trách nhiệm giải quyết công việc không rõ ràng và khó xác định trách nhiệm khi xảy ra hậu quả.
Hiện tại thay mặt quyền sở hữu Nhà nước được dàn trải ở nhiều cơ quan thay mặt làm nảy sinh nhiều vấn đề phiền hà cho doanh nghiệp, tạo ra nhiều sơ hở trong cơ chế quản lý vốn và tài chính của doanh nghiệp mà hậu quả khó lường hết cho cả các cơ quan quản lý Nhà nước lẫn doanh nghiệp.
3.4. Qua thực tế hoạt động có một số Tổng công ty đang đòi hỏi phải có giải pháp tổ chức sắp xếp lại như: Tổng công ty đá quý và vàng (Tổng công ty 91), Tổng công ty cơ khí năng lượng và mỏ (Tổng công ty 90).
3.5. Tình trạng thiếu vốn của các DNNN là phổ biến và nghiêm trọng. Tổng công ty Nhà nước tuy được ưu tiên các điều kiện vật chất, nguồn lực để phát triển nhưng tình hình cũng không sáng sủa hơn. Năm 1998, vốn Nhà nước bình quân của Tổng công ty 91 là 3661 tỉ đồng (260 triệu USD). Nhưng trong số 17 Tổng công ty 91 có tới 14 Tổng công ty (82%) có mức vốn Nhà nước dưới mức vốn bình quân, trong đó 6 Tổng công ty (35%) có mức vốn Nhà nước dưới 1000 tỉ đồng. Điều đó có nghĩa là chỉ có 3 Tổng công ty 91 có vốn Nhà nước là lớn.
Đối với Tổng công ty 90, tình hìnhh vốn còn đáng buồn hơn. Hơn 20% số Tổng công ty 90 vốn Nhà nước chỉ có dưới 100 tỉ đồng, trong đó ở 13 Tổng công ty vốn từ ngân sách cấp cho mỗi Tổng công ty chỉ được dưới 40 tỉ đồng.
Với quy mô vốn nhỏ hẹp như vậy, e rằng các Tổng công ty khó mà thực hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của mình.
III. Phương hướng và giải pháp cần làm để củng cố và phát triển các Tổng công ty.
1. Chấn chỉnh Bộ máy tổ chức của HĐQT và xử lý lại mối quan hệ giữa chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc.
* Hội đồng quản trị cần được chấn chỉnh cả về cơ cấu tổ chức và chất lượng hoạt động. Bài kết luận hội nghị sơ kết mô hình Tổng công ty của Phó Thủ tướng Ngô Xuân Lộc nêu rõ “chuẩn bị tốt về mặt nhân lực. Nâng cao chất lượng hoạt động của HĐQT để đủ sức gánh vác nhiệm vụ. Chủ tịch HĐQT và các thành viên của HĐQT phải là những người thuộc lĩnh vực hoạt động của Tổng công ty, có kiến thức chuyên môn sâu rộng, am hiểu nội tình của doanh nghiệp mà mình đang quản lý. Tham gia vào HĐQT có một số các giám đốc của các công ty đầu đàn của Tổng công ty. Tổng giám đốc Tổng công ty Dệt - May Việt Nam Bùi Xuân Khu nói: “Mô hình HĐQT cần hết sức gọn nhẹ. Thành viên HĐQT phải là những người giỏi chuyên môn, am hiểu ngành nghề thì mới có thể xây dựng các chiến lược, chính sách đúng đắn. Bên cạnh đó có thể lập hội đồng cố vấn để giúp đỡ cho HĐQT.
Theo ý kiến của Thủ tướng chính phủ và của ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương thì trong thời gian tới nên thí điểm mô hình chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty. Một số Tổng công ty đồng tình với giải pháp này. “Việc chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty là hoàn toàn đúng” ông chủ tịch HĐQT Tổng công ty xây dựng số 1 nói. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, chủ tịch HĐQT không nên kiêm nhiệm Tổng giám đốc. Tổng giám đốc Tổng công ty điện lực Việt Nam Hoàng Trung Hải đề nghị: “HĐQT nên chỉ có một số ít thành viên chuyên trách như: chủ tịch và trưởng ban kiểm soát, còn các thành viên khác nên kiêm nhiệm. Chủ nhiệm HĐQT phải là người quản lý có nhiều kinh nghiệm, năng động, có khả năng quản lý, đã kinh qua công tác lãnh đạo doanh nghiệp ít nhất 3 năm. Tổng giám đốc không nhất thiết là thành viên HĐQT và do HĐQT chọn và đề cử để chính phủ phê chuẩn. Đối với DNNN, chủ tịch HĐQT không nên kiêm nhiệm Tổng giám đốc để thực hiện được các chức năng khác nhau mà không bị chồng chéo và công tác giám sát được tốt hơn”. Tổng giám đốc Tổng công ty hàng không cũng nói: “Đối với Tổng công ty hàng không Việt Nam đề nghị không áp dụng mô hình chủ tịch HĐQT kiêm nhiệm Tổng giám đốc để tránh sự lẫn lộn giữa thay mặt sở hữu Nhà nước và người điều hành trong Tổng công ty”.
* Xét cả về phương diện pháp lý và trên thực tế, thì vị trí, chức năng, nhiệm vụ và qu...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status