Một số mô hình trồng trọt trong mùa lũ tại thành phố Long Xuyên năm 2004 - pdf 28

Download miễn phí Luận văn Một số mô hình trồng trọt trong mùa lũ tại thành phố Long Xuyên năm 2004



CẢM TẠ i
TÓM LƯỢT ii
MỤC LỤC iv
DANH SÁCH BẢNG vii
DANH SÁCH HÌNH x
Chương 1: GIỚI THIỆU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1
Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 3
2.1. Đặc điểm tự nhiên của thành phố Long Xuyên 3
2.2. Hiện trạng sử dụng đất 4
2.3. Tình hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Long Xuyên 4
2.4. Một số mô hình canh tác trong mùa lũ 6
Chương 3: PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 9
3.1. Phương tiện nghiên cứu 9
3.2. Phương pháp nghiên cứu 9
3.3. Phân tích thống kê 9
Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 10
4.1. Phân bố mẫu điều tra ở các phường, xã của Thành Phố 10
4.2. Đặc điểm chung của nông hộ điều tra





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


ững chương trình tập
huấn kỹ thuật có tỷ lệ là 93,3%, chiếm khá cao so với mô hình trồng rau màu là 53,3%.
Trong khi mô hình trồng rau nhút vì chưa có chương trình nào tổ chức tập huấn về kỹ
thuật canh tác loại cây này nên chỉ có 20,0% chủ hộ tham gia lớp tập huấn nhưng chủ
yếu chỉ là phổ biến kỹ thuật trồng màu và nuôi cá (Bảng 13).
Theo các hộ nông dân đã tham gia tập huấn thì những kỹ thuật được đưa vào
giảng dạy trong nông dân là: kỹ thuật nhân giống, làm lúa giống, IPM, thâm canh lúa
tổng hợp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cách sử dụng phân, thuốc bảo vệ thực vật, kỹ
thuật trồng rau, sản xuất rau an toàn, Các chương trình này được thực hiện bởi một số
tổ chức như Trạm bảo vệ thực vật, Trạm khuyến nông thành phố Long Xuyên, Trung
tâm hỗ trợ nông dân tỉnh, Hợp tác xã, Viện lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long, Sở Nông
Nghiệp, Trường đại học Cần Thơ,
34
4.3.2. Khả năng tiếp cận thị trường của nông hộ
Quyết định của nông hộ trong việc lựa chọn loại cây trồng để sản xuất, phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau được thể hiện trong Bảng 14.
Bảng 14: Tỷ lệ (%) chủ hộ đồng ý chọn các yếu tố để sản xuất và thông tin giá bán
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu Lúa vụ 3 Rau màu Rau nhút
*Các yếu tố
Giá cao 60,0 33,3 33,3
Dễ bán 86,7 86,7 80,0
Có sẵn giống 26,7 13,3 40,0
Hợp đồng với người bán 13,3 13,3 20,0
Kỹ thuật sản xuất 46,7 26,7 33,3
Điều kiện đất đai và nước tốt 46,7 46,7 86,7
*Thông tin giá bán
Thăm dò giá cả ở chợ 0,0 73,3 73,3
Hỏi hàng xóm 53,3 60,0 60,0
Hỏi những người thương buôn 66,7 0,0 0,0
Phần đông các hộ nông dân canh tác lựa chọn loại cây trồng để sản xuất vì nó dễ
bán (có đến 86,7% hộ đồng ý ở mô hình canh tác lúa và rau màu, 80,0% hộ đồng ý ở mô
hình trồng rau nhút). Yếu tố điều kiện đất đai và nước tốt thích hợp cho canh tác cũng
được đa số các hộ nông dân trong 3 mô hình đồng ý, mô hình trồng lúa và trồng rau màu
cùng có 46,7% và mô hình trồng rau nhút là 86,7% hộ đồng ý.
Thông tin giá cả thị trường mà các hộ nông dân canh tác lúa biết được chủ yếu là
từ những người thương buôn chiếm 66,7% và từ hàng xóm là 53,3%. Còn mô hình trồng
rau màu và rau nhút, người dân thăm dò giá cả ở chợ là chủ yếu (chiếm 73,3%) (Bảng
14). Nông dân bán sản phẩm của mình chủ yếu là do được giá và quen biết trước.
35
4.4. Kỹ thuật và hiệu quả kinh tế trong canh tác lúa vụ 3 của các hộ nông dân ở
Thành phố Long Xuyên năm 2004
4.4.1. Kỹ thuật canh tác
Qua điều tra, các giống lúa được nông dân ở thành phố Long Xuyên sử dụng
trong vụ 3 là OM1490 chiếm tỷ lệ 33,33%, Jasmine chiếm tỷ lệ 40,0% và một số giống
khác cùng có tỷ lệ thấp (6,67%) như: 1723OM351, OM2517, OM3536, AG24 (Bảng
15).
Bảng 15: Các giống lúa sử dụng trong canh tác lúa vụ 3 tại thành phố Long Xuyên năm
2004
Giống lúa Số hộ Tỉ lệ (%)
Jasmine 6 40,00
OM1490 5 33,33
1723OM351 1 6,67
OM3536 1 6,67
AG24 1 6,67
OM2517 1 6,67
Tổng số 15
Các giống lúa có thời gian sinh trưởng từ 90 đến 110 ngày, đa số đều là giống
lúa thơm, giống lúa chất lượng cao được nông dân sản xuất chủ yếu là làm giống cho vụ
sau và bán giống cho nông dân khác ở xung quanh. Điều này phù hợp với nhận định của
Mai Thành Phụng (2004) là sản xuất lúa thơm hay nhân giống, bán giống thích hợp cho
sản xuất lúa vụ Thu Đông.
Theo Mai Thành Phụng (2004) thì mật độ sạ từ 100 – 120 kg giống/ha là tốt nhất
(tối đa là 140 kg/ha). Mật độ này tương đương với lượng giống sử dụng của nông dân đã
điều tra trong canh tác lúa vụ 3 ở thành phố Long Xuyên (lượng giống sử dụng trung
bình cho 1 ha diện tích đất canh tác là 124 kg). Với mật độ sạ hợp lý như thế sẽ cho năng
suất và hiệu quả kinh tế cao hơn sạ dày, dễ chăm sóc và ít sâu bệnh. Phần lớn nông dân
sử dụng giống nhà và giá giống trung bình là 3.900 đồng/kg (Bảng 16).
Chuẩn bị đất trước khi gieo trồng như cày, xới, được thực hiện bằng máy
(100%), trang bằng đất có 93,3% hộ trang bằng máy và 6,7% hộ trang đất bằng bò; bờ
ruộng cũng được tu sửa lại chủ yếu được thực hiện bằng tay. Hiện nay máy sạ hàng đang
36
rất phổ biến trong nông dân, giúp giảm lượng giống sử dụng, hạn chế sâu bệnh, cỏ dại
trên đồng ruộng và tăng năng suất lúa. Theo kết quả điều tra có 53,3% hộ sạ lúa bằng
máy sạ hàng; 46,7% hộ sạ lúa bằng tay. Thời điểm nông dân bắt đầu sạ lúa hay kéo
hàng là từ tháng 6 đến tháng 7 dương lịch. Khoảng từ 18 ngày sau khi sạ nông dân tiến
hành cấy dặm và tiến hành bơm nước hay xả nước vào ruộng khoảng 6 ngày sau khi sạ
(Bảng 16).
Bảng 16: Các hoạt động trong canh tác lúa vụ 3 của nông dân tại thành phố Long Xuyên
năm 2004
Phương pháp canh tác
(%) hộ
áp dụng Số lượng
Mật độ sạ (kg/ha) 124
Giá giống (đồng/kg) 3.900
Cày, xới đất máy 100
Trang đất máy 93,3
bò 6,7
Sạ lúa kéo hàng 53,3
tay 46,7
Cấy dặm tay 18 NSKS
Bơm nước máy, tay 6 NSKS
Bón phân tay 7 - 12 NSKS
Số đợt bón phân/vụ 3 đến 5 đợt
Xịt thuốc tay 36 NSKS
Số lần xịt thuốc/vụ 1 - 2 lần
Diệt mầm phun thuốc 82,65
Thu hoạch tay 90 - 110 NSKS
Năng suất 5,28 tấn/ha
Phơi lúa 82,35
Sấy lúa 17,65
Ghi chú: NSKS: Ngày sau khi sạ
Nông dân bón phân cho lúa dao động trong khoảng thời gian từ 7 – 12 ngày sau
khi sạ, trung bình nông dân bón từ 3 đến 5 đợt phân/vụ. Đối với phân urê, kali và DAP,
được hầu hết các hộ nông dân sử dụng cho lúa, còn NPK chỉ có 33,3% hộ sử dụng loại
phân này. Trong đó, lượng phân urê sử dụng là 197,3 kg/ha, lượng kali là 89,7 kg/ha,
lượng NPK và DAP sử dụng ở mức trung bình từ 145 kg/ha và 105,1 kg/ha (Bảng 17).
37
Ngoài ra, còn có một số nông dân sử dụng thêm các loại phân khác như KNO3, phân gà,
phân lân.
Bảng 17: Các loại phân bón sử dụng trong canh tác lúa vụ 3 của nông dân ở thành phố
Long Xuyên năm 2004
Sử dụng phân bón Urê Kali NPK DAP Phân khác
Hộ có sử dụng (%) 100 80,0 33,3 93,3 11,8
Hộ không sử dụng (%) 0,0 20,0 66,7 6,7 88,2
Hàm lượng sử dụng (kg/ha)
Trung bình (kg/ha) 197,3 89,7 145,0 105,1 119,3
Nhỏ nhất (kg/ha) 110 30 70 50 8
Lớn nhất (kg/ha) 400 216 300 192 250
Số lần sử dụng/vụ 3,3 1,8 1,8 1,9 1,3
Giá (đồng/kg) 4.145 3.600 4.193 4.900 8.833
Khoảng từ 36 ngày sau khi sạ, nông dân bắt đầu phun thuốc để diệt sâu và trị
bệnh trên lúa. Trung bình phun 1 đến 2 lần/vụ để trị các loại sâu. Một số loại thuốc sâu
được nông dân sử dụng là: Padan, Actara, Motox, Basudin, Regent đỏ (xanh), Sunrice,
Kinalux, Peran,
Qua điều tra cho thấy nông dân cũng phun từ 1 đến 2 lần/vụ để trị bệnh trên lúa,
trong đó số hộ nông dân phun 1 lần chiếm 63,33 và phun 2 lần chiếm 36,67%. Một số
loại thuốc bệnh được nông dân sử dụng như: Tilt super, Rabcide, Fuan, Arrin, Beam,
Adavin, Flash, Tridozole, Folicur, Kasai,
Để diệt và hạn chế các loại cỏ, nông dân cũng tiến hành phun một số thuốc như:
Sofit, Vibuta, Nominee, Sirius, Lincher, Ekill, Số hộ nông dân phun 1 lần chiếm tỷ lệ
cao (93,33%) và phun 2 lần là 6,67%. Đa số các hộ nông có phun thuốc diệt mầm, chiếm
tỷ lệ 82,65% (Bảng 16).
Cắt lúa bằng tay là phương pháp thu hoạch lúa chủ yếu ở các hộ nông dân điều
tra; chỉ có 17,65% hộ sấy lúa sau thu hoạch, còn lại các hộ nông dân khác tiến hành phơi
lúa (Bảng 16).
38
4.4.2. Hiệu quả kinh tế
Trong mô hình canh tác lúa vụ 3 đã điều tra, tổng chi phí mà các hộ nông dân
phải bỏ ra là 5,30 triệu đồng/ha. Trong đó bao gồm chi phí vật tư là 2,80 triệu đồng/ha;
gồm khoản chi về phân, thuốc và giống chiếm tỷ lệ cao nhất trong các khoản chi phí
khác đầu tư cho sản xuất lúa (52,83%). Tiền công chi trả cho những hoạt động thuê
mướn lao động là 1,94 triệu đồng/ha/vụ chiếm 36,60%; bao gồm các chi phí như: chuẩn
bị đất, gieo sạ, cấy dặm, bơm thoát nước, làm cỏ, thu hoạch (cắt, gom, vác, vận chuyển),
phơi sấy,
Bảng 18: Hiệu quả kinh tế trong canh tác lúa vụ 3 tại thành phố Long Xuyên năm 2004
Chỉ tiêu (triệu đồng/ha/vụ) Tỷ lệ (%)
Chi phí vật tư 2,80 52,83
Chi phí lao động thuê 1,94 36,60
Chi phí lao động gia đình 0,56 10,57
Tổng chi 5,30
Tổng thu 12,81
Lãi thuần 7,51
Hiệu quả đồng vốn 1,58
Chi phí lao động mà gia đình bỏ ra để tham gia vào sản xuất lúa được quy ra tiền
là 0,56 triệu đồng/ha/vụ. Gồm các hoạt động như: chuẩn bị đất, bơm thoát nước, bón
phân, xịt thuốc, phơi lúa, chiếm tỷ lệ 10,57%, tỷ lệ này thấp nhất trong các khoản chi
phí khác đầu tư trong sản xuất lúa (Bảng 18).
Năng suất trung bình của các hộ canh tác lúa đạt 5,28 tấn/ha; giá bán trung bình
2.397 đồng/kg (thời gian bán từ tháng 8 đến tháng 10 dương lịch), chủ yếu nông dân bán
cho bạn hàng hay hàng xóm xung quanh. Tổng thu mà các hộ nông dân có được sau
trồng lúa vụ 3 là 12,81 triệu đồng trong khi tổng chi là 5,30 triệu đồng/ha, nên lợi nhuận
trung bình có được là 7,51 triệu đồng/ha/vụ (Bảng 18). Như vậy, khi các hộ nông dân
trồng lúa bỏ ra 1 đồng vốn bao gồm chi phí vật tư và chi phí lao động thuê thì thu lại
được 1,58 đồng, cho thấy hiệu quả kinh tế của đồng vốn trong canh tác lúa không cao
(Bảng 18).
39
4.5. Kỹ thuật và hiệu quả kinh tế trong canh tác rau màu tại thành phố Long
Xuyên năm 2004
4.5.1. Kỹ thuật canh tác
Trong tất cả các hộ điều...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status