Khảo sát khả năng xua đuỗi rầy nâu của chế phẩm chứa hoạt chất salicylic acid - pdf 28

Download miễn phí Khóa luận Khảo sát khả năng xua đuỗi rầy nâu của chế phẩm chứa hoạt chất salicylic acid



Thức ăn cần thiết cho rầy nâu để tăng kích thước cơ thể, phát triển cơ quan sinh dục, để bù lại năng lượng bị mất trong hoạt động sống của chúng (Phạm Văn Lầm, 2006). Trong các giai đoạn phát triển thì rầy tuổi 5 hút nhiều nhựa hơn rầy trưởng thành và rầy cái hút nhiều hơn rầy đực (Nguyễn Xuân Hiển và cs.,1979). Thức ăn có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến độ mắn đẻ, tốc độ phát triển tuổi thọ và số lượng của chúng (Phạm Văn Lầm, 2006).
Thời vụ kéo dài, ruộng làm lúa quanh năm, rầy có nguồn thức ăn liên tục tạo điều kiện cho rầy gia tăng mật số.
Ruộng sạ dày, bón nhiều đạm tạo nguồn thức ăn, nơi ẩn nấp của rầy và là điều kiện tốt để rầy phát triển.
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


ïng và cơ chế quản lý nông nghiệp thoáng hơn nên năng suất lúa có xu hướng tăng dần. Đến năm 1982, một loạt chính sách cải tạo ruộng đất và đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường, nông dân được giao quyền sử dụng đất nên quan tâm, phấn khởi hơn và có toàn quyền quyết định trong sản xuất của họ, vì vậy mà năng suất lúa đã tăng lên nhanh chóng từ 3 tấn/ha lên đến 4.9 tấn/ha vào năm 2005. Sản lượng lúa đã tăng hơn 3 lần so với năm 1975. Nhờ thế, mà từ một đất nước phải nhập khẩu hàng năm Việt Nam đã vươn lên là một trong những nước xuất khẩu lúa gạo hàng đầu của thế giới.
Bảng 1.5 : Diện tích, năng suất và sản lượng lúa ở Việt Nam qua các năm
Năm
Diện tích
(Triệu ha)
Năng suất (t/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
1955
4.42
1.44
6.36
1960
4.6
1.99
9.17
1965
4.83
1.94
9.37
1970
7.72
2.15
10.17
1975
7.94
2.16
10.54
1980
5.54
2.11
11.68
1985
5.7
2.78
15.87
1990
5.96
3.21
19.14
1995
6.77
3.69
24.96
2000
7.67
4.24
32.53
2001
7.49
4.29
32.11
2002
7.5
4.59
34.45
2003
7.45
4.64
34.57
2004
7.45
4086
36.15
2005
7.33
4.89
35.79
Nguồn: Nguyễn ngọc Đệ, 2008
Từ năm 1997 đến nay, hàng năm nước ta xuất khẩu trung bình trên dưới 4 triệu tấn gạo, đem về một nguồn thu ngoại tệ rất đáng kể. Hiện nay, Việt Nam đứng hàng thứ 6 thế giới về diện tích gieo trồng lúa và đứng hàng thứ 5 về sản lượng lúa.
1.2. RẦY NÂU HẠI LÚA
1.2.1. Nguồn gốc và phân bố của rầy nâu
Rầy nâu (Nilaparvata lugens (Stal)) thuộc giống Nilaparvata, họ rầy delphacidea, bộ nhỏ Fulgoromorpha, bộ phụ Auchenorrbyncha, bộ cánh đều Homoptera (Nguyễn Xuân Hiển và cs., 1979). Nilaparvata lugens được Stal đặt tên vào năm 1854. Giống Nilaparvata có 8 loài trong đó chỉ có Nilaparvata lugens là gây hại trên lúa.
Nilaparvata lugens xuất hiện ở tất cả các nước trồng lúa như Ấn Độ, Sri Lanka, Bangladesh, Campuchia, Thái Lan, Indonexia, Malaysia, Nhật Bản, Philippin, Trung Quốc, Việt Nam (Lê Thị Sen, 1999)
1.2.2 Tác hại của rầy nâu (Nilaparvata lugens)
Rầy nâu trở thành loài sâu hại nguy hiểm tại các nước trồng lúa từ nửa sau thế kỷ XX. Những trận dịch rầy nâu đã ghi nhận xuất hiện tại nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản, Ấn Độ, Indonexia, Philippines, Malaysia, Thái Lan đã gây nhiều thiệt hại (Phạm Văn Lầm, 2006).
Theo Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen (2004) thì tại Việt Nam, rầy nâu được ghi nhận xuất hiện trên lúa từ rất lâu nhưng không gây thành những trận dịch lớn do chỉ trồng lúa mùa. Năm 1965 Viện Nghiên Cứu Lúa Gạo Quốc Tế đã đưa vào Việt Nam các giống lúa ngắn ngày và được trồng đầu tiên ở Miền Trung. Các giống lúa ngày được trồng nhiều vụ trong một năm là điều kiện để rầy nâu nhanh chóng nhân mật số. Năm 1969 rầy nâu bắt đầu gây hại mạnh ở Phan Rang và một số tỉnh miền Trung.
Từ năm 1971 – 1974, rầy nâu đã gây hại cây lúa tại nhiều vùng thuộc các tỉnh duyên hải miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long, diện tích bị hại năm 1974 lên đến 94.000 ha (Lê Thị Sen, 1999).
Năm 1974, phá hại lúa ở Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa, Tây Ninh, Long An, Vĩnh Long, An Giang. Từ tháng 11/1977, rầy nâu đã phát sinh thành dịch lớn ở các tỉnh Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Đồng Tháp trên diện tích 100.000 ha, trong đó có 10.000 ha mất trắng, 90.000 ha bị hại từ 30 – 50% năng suất (Phạm Văn Lầm, 2006).
Từ năm 1977 – 1979, rầy nâu đã gây thành dịch tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long với diện tích lúa bị phá hại khoảng một triệu hecta, nhiều nơi bị mất trắng, thiệt hại đến hàng triệu tấn lúa.
Từ vụ Hè – Thu năm 1988 đến Đông – Xuân năm 1989 – 1990, rầy nâu đã phát sinh và thành dịch gây thiệt hại nặng ở một số nơi như thành phố Hồ Chí Minh, An Giang, Tiền Giang, Minh Hải (Bạc Liêu). Riêng năm 1990, ở đồng bằng sông Cửu Long, tính cả 3 vụ sản xuất có khoảng 237.820 ha lúa bị nhiễm rầy nâu, chiếm 8.3% diện tích lúa cả năm.
Năm 2006, đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ bị rầy nâu, bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá làm thất thu hơn 600 ngàn tấn
Ngoài ra, rầy nâu còn là môi giới truyền bệnh virus dễn đến bệnh lúa cỏ và lùn xoắn lá (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004).
1.2.3 Nguyên nhân phát sinh rầy nâu
Do vụ Đông – Xuân và Hè – Thu gieo sạ cận nhau quá và không đồng loạt nên tạo ra cầu nối cho rầy trưởng thành từ lúa Đông – Xuân mang mầm bệnh truyền cho lúa Hè – Thu. Diện tích canh tác lúa nhiễm rầy cũng gia tăng và trồng xen trong vùng lúa Đông Xuân mà không được xuống giống đồng loạt. Khả năng kháng rầy của giống lúa đã suy yếu, do đã sử dụng trong thời gian quá lâu (Nguyễn Văn Huỳnh, 2006).
1.2.4 Ký chủ
Ký chủ chính của rầy nâu là cây lúa, ngoài ra rầy nâu có thể sống trên các cây ký chủ khác như cỏ. Tuy nhiên, với thí nghiệm của Viện Kỹ Thuật Miền Đông (1979), thì lúa ma Oryza minuta cũng có thể xem là cây ký chủ chính của rầy nâu cần lưu ý ở ĐBSCL.
Theo Nguyễn Xuân Hiển và cs (1979), thì thực tế trong điều kiện thí nghiệm đã nuôi được rầy nâu tuổi 1 đến trưởng thành trên các cây sau: Oryza minuta, Oryza alta, Oryza sativa, Leersia Stellaria alsine, Trong điều kiện ruộng đồng đã thấy trứng rầy nâu đẻ trên những cây như Aneilema keisak, Oryza sativa, Triticum aestium, Cyper difformis, và cũng bắt được rầy trưởng thành trên những cây như: Aneilema keisak, Alopecurus aequalis, Var. amurensis, Digitaria adscendens,
Theo Phạm Văn Lầm (2006) thì Mochida Okada (1971), đã lập danh sách hơn 90 loài thực vật (không kể loài lúa Oryza sativa) thuộc nhiều họ khác nhau có thể là ký chủ và nơi đẻ trứng của rầy nâu. Họ cho rằng một ký chủ phụ thực sự phải là loài thực vật mà trên cây đó rầy nâu phải phát triển được ít nhất một thế hệ trong điều kiện đồng ruộng. Okada đã thí nghiệm với 34 loài cỏ dại, trên mỗi loài cỏ đã nhốt 200 con rầy nâu trưởng thành, kết quả cho thấy tỷ lệ sống của rầy nâu trên cỏ dại rất thấp. Mặc dù thí nghiệm đều có rầy cám nở ra, tuy nhiên sau 15 ngày từ khi lây nhiễm trưởng thành rầy nâu thì tất cả chúng đều chết.
1.2.5. Đặc điểm hình thái và sinh học
Vòng đời rầy nâu chia làm 3 giai đoạn: trứng, ấu trùng và thành trùng. Sự phát triển của từng giai đoạn phụ thuộc vào nhiệt độ và thức ăn (Mochida và Heinrichs, 1982).
1.2.5.1 Trứng
Trứng rầy nâu hình hạt gạo (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004) hay hình trụ dài, cong, một đầu thon, dài 0.89 mm (Phạm Văn Lầm, 2006). Trứng mới đẻ có màu trắng trong (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2006) hay nâu vàng (Phạm Văn Lầm, 2006). Khi trứng nở có màu vàng hay vàng sậm (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004). Phía trên có bộ phận che lại gọi là nấp trứng tựa hình thang. Trứng rầy nâu được đẻ thành từng hàng, kiểu úp thìa vào bên trong bẹ cây lúa hay bên trong bẹ lá lúa, hơi nhô ra ngoài. Thời gian ủ trứng từ 6 – 9 ngày (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004).
1.2.5.2 Ấu trùng
Ấu trùng rầy nâu (rầy cám) có 5 tuổi (Phạm Văn Lầm, 2006; Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004), khi mới nở rất nhỏ màu trắng sữa, càng lớn rầy chuyển màu vàng nhạt (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004).
Theo Phạm Văn Lầm (2006) thì đặc điểm, hình dạng các tuổi của ấu trùng như sau:
- Rầy nâu tuổi 1: Lưng có màu đen xám, có đường thẳng trên lề ngực sau, thân dài 1.1 mm.
- Rầy nâu tuổi 2: Lưng màu nâu vàng, lề ngực sau lõm ra phía trước, thân dài 1.5 mm.
- Rầy nâu tuổi 3: Lưng màu nâu vàng lẫn lộn, mầm cánh xuất hiện rõ, thân dài 2mm.
- Rầy nâu tuổi 4: Màu nâu vàng lẫn lộn, mầm cánh sau nhọn, thân dài 2.4mm.
- Rầy nâu tuổi 5: Màu nâu vàng lẫn lộn, mầm cánh trước dài hơn mầm cánh sau, thân dài 3.2mm.
Ấu trùng rầy nâu tuổi lớn rất giống thành trùng cánh ngắn nhưng cánh ngắn hơn và đục. Trong khi cánh của thành trùng cánh ngắn thì trong suốt và các gân màu đậm (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004).
Theo Viện Kỹ Thuật Công Nghiệp Miền Đông (1979) thì thời gian tổng cộng của 5 tuổi ấu trùng rầy nâu khoảng 11 - 14 ngày, trong đó thời gian tuổi 1 và tuổi 5 thường trên dưới 3 ngày, rầy nâu tuổi 2,3,4 trung bình trên 2 ngày. Tuy nhiên theo Mochida và Heinrichs (1982), thì giai đoạn ấu trùng là 12 ngày ở 27 -280C, 14 ngày ở 250C.
1.2.5.3. Thành trùng
Thành trùng rầy nâu có hai dạng cánh: cánh ngắn và cánh dài. Dạng cánh dài có cánh che phủ cả thân và chủ yếu dùng để bay đi tìm thức ăn. Dạng cánh ngắn có cánh phủ đến đốt thứ 6 của thân mình, dạng cánh này chỉ phát sinh khi thức ăn đầy đủ, thời tiết thích hợp và có khả năng đẻ trứng cao (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004). Thành trùng dạng cánh dài có kích thước cơ thể lớn hơn thành trùng dạng cánh ngắn, chân và máng đẻ cũng dài hơn (Nguyễn Văn Lầm, 2006).
Thành trùng cánh dài có thân dài 4.5 – 5mm (kể cả cánh). Mặt lưng cơ thể màu nâu vàng hay nâu tối. Đỉnh đầu nhô ra phía trước, phần gốc râu có 2 đốt nở to. Cánh trong suốt, giữa cạnh sau mỗi cánh trước có một đốm đen, khi 2 cánh xếp lại, 2 đốm này chồng lên nhau tạo thành 1 đốm đen to trên lưng. Bộ phận đẻ trứng bén nhọn màu đen.
Thành trùng cánh ngắn có thân dài 3.5 – 4mm, cánh trước kéo dài tới 2/3 chiều dài phần bụng, kéo dài đến đốt bụng thứ 6.
Khả năng đẻ trứng: số trứng do rầy cái đẻ thay đổi theo cá thể, tuổi thọ, thời kỳ đẻ trứng và tình trạng phát triển của cây lúa. Mỗi co...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status