LUẬN VĂN: Phân tích tình hình tài chính trong việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và năng lực đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng pot - Pdf 15


LUẬN VĂN:

Phân tích tình hình tài chính trong việc nâng
cao hiệu quả quản lý tài chính và năng lực
đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng

có sản nguồn nguyên liệu, nhân công thì người nhận thầu có nhiều cơ hội giảm bớt chi
phi sản xuất và thu được lợi nhuận cao hơn.
Việc tiêu thụ sản phẩm xây dựng được tién hành trực tiếp giữa người mua và
người bán không qua khâu trung gian.
Quá trình cung và cầu xây dựng xảy ra tương đối không liên tục như các ngành
khác. Thị trường xây dựng phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường đầu tư, nhất là lãi suất tín
dụng để đầu tư và vào mức thu lợi đạt được của đầu tư.
Trong xây dựng không có giá cả thống nhất cho sản phẩm toàn vẹn. Chính sách
và chiến lược giá cả của chủ thầu xây dựng thường khó linh hoạt. Từ những đặc điểm
kinh doanh sản phẩm xây dựng như trên , công tác tổ chức kinh doanh xây dựng cũng
có những nét riêng biệt so với ngành khác cụ thể là:
Các giải pháp tổ chức kinh doanh xây dựng có tính cá biệt cao và luôn biến đổi
linh hoạt. Sau mỗi lần nhận được công trình mới cần phải một lần thay đổi cơ cấu tổ
chức và quản lý của doanh nghiệp kèm theo các biện pháp điều hành cho phù hợp với
địa điểm xây dựng mới.
Các giải pháp tổ chức kinh doanh rất phức tạp và phạm vi ảnh hưởng rộng lớn về
không gian và thời gian. Bộ máy quản lý xây lắp có thể trải rộng trên lãnh thổ, nhất là
công trình trải rộng trên các tuyến dài. Thời gian xây dựng một công trình kéo dài qua
nhiều năm. Việc phối hợp giữa các đơn vị thi công đòi hỏi trình độ quản lý cao.
Quá trình tổ chức quản lý kinh doanh dễ bị gián đoạn do khoảng cách lớn, do
thời tiết, do nhận thầu công trình không liên tục, do suy thoái kinh tế. Việc duy trì lực
lượng lao động trong thời gian không có việc làm là một điều khó khăn.
Công tác quản lý sản xuất kinh doanh phụ thuộc nhiều vào chủ đầu tư, vào khả
năng thắng thầu và khó chủ động hơn các ngành khác.
Sự vận động của các quy luật kinh tế thị trường trong xây dựng cơ bản có một số
đặc điểm khác với các ngành khác nên chiến lược marketing về sản phẩm, về giá, vệ
tiêu thụ, cạnh tranh , chiến lược thị trường cũng có những đặc điểm riêng biệt.
1.1.2. Yêu cầu quản lý tài chính trong doanh nghiệp xây dựng

buộc các doanh nghiệp phải thực hiện nếu như không muốn mình bị phá sản. Để thực
hiện dược yêu cầu lấy thu bù chi và có lãi của nguyên tắc này, việc quản lý tài chính của
doanh nghiệp phải hướng vào hàng loạt các biện pháp như chủ động tận dụng, khai thác các nguồn vốn , bảo toàn và phát huy có hiệu quả đồng vốn, việc đầu tư vốn phải bám
sát nhu cầu thị trường tất cả những biện pháp đó đều nhằm thực hiện một mục đích
xuyên suốt quá trình kinh doanh là kinh doanh phải có hiệu quả .
Thứ ba: quản lý tài chính doanh nghiệp xây dựng phải đảm bảo thu hút các
nguồn tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của doanh nghiệp . Để thực
hiện mọi quá trình sản xuất kinh doanh, trước hết các doanh nghiệp phải có một yếu tố
tiền đề đó là vốn điều kiện. ở nước ta, chuyển sang nền kinh tế thị trường đa thành phần,
các doanh nghiệp Nhà nước chỉ còn là một bộ phận cùng song song cùng tồn tại trong
cạnh tranh Việc thu hút vốn cho đầu tư phát triển những ngành nghề mới nhằm thu lợi
nhuận cao trở thành động lực và đòi hỏi bức bách đối với doanh nghiệp. Trong nền
kinh tế thị trường khi đã có nhu cầu vốn tất yếu nảy sinh cung ứng vốn. Thị trường vốn
tất yếu được hình thành và quy luật cung cầu về vốn sẽ có môi trường để hoạt động.
Trong điều kiện đó các doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện và khả năng để chủ động khai
thác, thu hút các nguồn vốn trên thị trường nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh
và phát triển của mình. Vấn đề ở đây là người quản lý phải xác nhận chính xác nhu cầu
vốn, cấn nhắc, lựa chọn các phương án đầu tư sao cho có hiệu quả cao, lựa chọn các
hình thức thu hút thích hợp, sử ụng các đòn bẩy kinh tế như lãi suất vay, lợi tức cổ
phần để đủ sức huy động vốn kinh hoạt, sử dụng các nguồn vốn và cân dối khả năng
thanh toán
Thứ tư: quản lý tài chính trong xây dựng phải giữ vững nguyên tắc tiết kiệm và
hiệu quả. Cũng như đảm bảo vốn, việc tổ chức và sử dụng vốn một cách tiết kiệm và
hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triên của doanh nghiệp. Trong điều kiện
của nền kinh tế thị trường, yêu cầu của các quy luật kinh tế đã đặt ra trước mối doanh
nghiệp những chuẩn mực hết sức khăt khe: sản xuất theo giá thị trường, bán nhữg sản
phẩm (bao gồm hàng hoá và dịch vụ) mà thị trường cần và chấp nhận được, chứ không

doanh nghiệp .
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp không những cho biết tình hình tài
chính doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo mà còn cho thấy kết quả hoạt động mà đạt
được trong hoàn cảnh đó. Mục đích của phân tích tình hình tài chính giúp cho người sử
dụng thông tin đánh giá chính xác sức mạnh tài chính, khả năng sinh lời và triển vọng
của doanh nghiệp. Do đó phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là mối quan tâm
của nhiều nhóm người khác nhau như ban giám đốc, hội đồng quản trị, các nhà đầu tư, các cổ động, các chủ nợ, các khách hàng chính, người cho vay, các ngân hàng, các nhà
quản lý, các nhà bảo hiểm, các đại lý kể cả các cơ quan Nhà nước và bản thân người
lao động .
Tuy nhiên trong điều kiện sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước hiện nay, các doanh nghiệp xây lắp cũng như các doanh nghiệp ở
Việt Nam khác đều bình đẳng trong kinh doanh. Tình hình tài chính của doanh nghiệp
xây dựng không chỉ là mối quan tâm đặc biệt của chủ đầu tư mà còn là quan tâm của
nhiều đối tượng khác. Sự quan tâm này dưới nhiều góc độ khác nhau, song nhìn chung
đều tập trung vào khả năng tạo ra các dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh
toán và mức lợi nhuận tối đa, mức độ rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp Bởi
vậy phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp phải đạt được các mục tiêu chính sau:
Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp và các chủ doanh nghiệp mối quan tâm
của họ là lợi nhuận và khả năng thanh toán, việc phân tích tình hình tài chính phải cung
cấp đầy đủ các thông tin nhằm đánh gá tình hình tài chính đã qua, thực hiện cân bằng tài
chính, khả năng thanh toán, sinh lợi rủi ro và dự đoán tình hình tài chính nhằm đề ra
quyết định đúng đắn.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng mối quan tâm của họ
chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp . Họ đặc biệt chú ý đến lượng tiền
và các tài sản khác có thể chuyển đổi thanh tiền nhanh, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn
để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Bên cạnh đó các chủ ngân
hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng chú ý tới lượng vốn chủ sở hữu, bởi vốn chủ sở

ánh tương đối đầy đủ trong báo cáo tài chính.
Báo cáo tài chính: là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và hế độ kế
toán hiện hành (hoặc được chấp nhận) phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu
của đơn vị. (Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 200 - Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi
phối kiểm toán báo cáo tài chính).
Hệ thống báo cáo tài chính được tổng hợp và trình bầy một cách tổng quát và
toàn diện tình hình tài sản, công nợ nguồn vốn, tình hình và kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp trong một kỳ hạch toán.
Thông tin do báo cáo tài chính cung cấp cho phép đánh giá thực trạng tài chính
của doanh nghiệp xây lắp trong kỳ hoạt động đã qua và những dự đoán trong tương lai. Thông tin của báo cáo tài chính là căn cứ quan trọng cho việc đề ra các quyết định về
quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc đầu tư vào các doanh nghiệp xây
dựng của các chủ doanh nghiệp , chủ sở hữu, các nhà đầu tư , các chủ nợ hiện tại và
tương lai của doanh nghiệp .
Hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp Việt Nam hiện nay ban hành theo
Quyết định sô 167/2000/QĐ-BTC ngày 25 tháng 10 năm 2000 của Bộ trưởng bộ Tài
chính gồm:
Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Nội dung và kết cấu cụ thể như sau:
* Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính chủ yếu phản ánh tổng hợp quát
tình hình tài sản của doanh nghiệp theo giá trị và nguồn hình thành tài sản ở một thời
điểm nhất định. Như vậy Bảng cân đối kế toán phản ánh mối quan hệ cân đối tổng thể
giữa “tài sản” và “nguồn vốn” của doanh nghiệp, thể hiện phương trình kế toán cơ bản :
Tài sản = nợ phải trả + nguồn vốn chủ sở hữu
Bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị tài sản và nguồn vốn tại một thời điểm .
Thời điểm đó thường vào ngày cuối cùng của kỳ hạch toán . Tuy vậy so sánh số liệu
giữa hai thời điểm trên bảng cân đối kế toán cũng co thể thấy được một cách khái quát

Về mặt pháp lý: Số liệu của các chỉ tiêu thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh
nghiệp về số tài sản đang quản lý, sử dụng đối với Nhà nước, với cấp trên (về nguồn vốn
của Nhà nước) với các nhà đầu tư, với cổ đông, với liên doanh, với ngân hàng, tổ chức
tín dụng (về các khoản vốn vay) với khách hàng, với các đơn vị kinh tế khác.
ở cả hai phần ngoài cột chỉ tiêu còn có các cột phản ánh mã số của chỉ tiêu, cột
số đầu năm và số cuối kỳ.
* Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Báo cáo ”Kết quả hoạt động kinh doanh “là một báo cáo kế toán tài chính
phản ánh tổng hợp doanh thu, chi phí và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Ngoài ra báo cáo này còn phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ của doanh
nghiệp đối với Nhà nước cũng như tình hình thuế giá trị gia tăng bán hàng nội địa trong
một kỳ kế toán. “Báo cáo kết quả kinh doanh”cũng là báo cáo tài chính quan trọng cho nhiều
đối tượng khác nhau nhằm phục vụ cho việc đánh giá hiệu quả hoạt động và khả năng
sinh lãi của doanh nghiệp.
Thông qua số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh, có thể kiểm tra được tình
hình thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước về các khoản
thuế và các khoản phải nộp khác, đánh giá được xu hướng phát triển của doanh nghiệp
qua các ký khác nhau.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh gồm 3 phần:
- Phần phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau mỗi kỳ
hoạt động (Phần I: Lãi lỗ) phần này có nhiều chỉ tiêu liên quan đến doanh thu, chi phí
của hoạt động sản xuất kinh doanh và các chỉ tiêu liên quan đến thu nhập chi phí của
từng hoạt động tài chính và các hoạt động bất thường cũng như toàn bộ kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu thuộc phần này đều được theo
dõi chi tiết theo số quý trước, quý này và quý kể từ đầu năm.
- Phần phản ánh trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước gồm
các chỉ tiêu liên quan đến các loại thuế, các khoản phí và các khoản phải nộp khác

chính khác không thể trình bày rõ ràng và chi tiết được.
Thuyết minh báo cáo tài chính trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của
doanh nghiệp; nội dung một số chế độ kế toán được doanh nghiệp lựa chọn đế áp dụng;
tình hình và lý do biến động của một số đối tượng tài sản và nguồn vốn quan trọng;
phân tích một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu và các kiến nghị của doanh nghiệp.
Mặc dù mỗi loại báo cáo tài chính cung cấp những thông tin khác nhau, nhưng
không báo cáo nào chỉ phục vụ cho một mục đích hoặc cung cấp thông tin cần thiết để
đáp ứng mọi yêu cầu sử dụng. Mỗi báo cáo trong hệ thống báo cáo tài chính có mối liên
hệ tương hỗ lẫn nhau, chúng phản ánh những khía cạnh khác nhau của cùng một nghiệp
vụ, cùng một sự kiện. Vì vậy để đánh giá đúng đắn về thực trạng tình hình tài chính của
doanh nghiệp phải xem xét các báo cáo tài chính trong một hệ thống và thực hiện phân
tích tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính của nó.
1.2.2. Hiệu quả quản lý tài chính
Để hiểu khái niệm hiệu quả quản lý tài chính trước hết cần xem xét khái niệm
hiệu quả. Hiệu quả là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục
tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những
điều kiện nhất định. Hiệu quả được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau nên hình
thành nhiều khái niệm khác nhau như hiệu quả tổng hợp, hiệu quả kinh tế, hiệu quả
chính trị xã hội, hiệu quả trực tiếp, hiệu quả gián tiếp, hiệu quả tương đối, hiệu quả tuyệt
đối Xét theo góc độ chủ thể nhận được kết quả (lợi ích) và bỏ ra chi phí để có được kết
quả có khái niệm hiệu quả quản lý tài chính.
Hiệu quả quản lý tài chính: phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà
doanh nghiệp nhận được và chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra , trình độ sử dụng các
nguồn lực để có được lợi ích kinh tế. Hiệu quả quản lý tài chính là mối quan tâm hàng
đầu của các doanh nghiệp , các nhà đầu tư. Hiệu quả quản lý tài chính chỉ liên quan đến
việc thu chi có liên quan trực tiếp.
1.2.3. Đánh giá khái quát tình hình tài chính


Tăng giảm
Số tuyệt đ
ối
Số tương
đối (%)

A. Tài sản lưu động
và đầu tư ngắn hạn
(100=110+120+130+1
40+150+160)

I. Tiền

II Các khoản đầu tư tài
chính ngắn hạn

III

Các khoản phải thu



I Tài sản cố định

II Các khoản đầu tư tài
chính dài hạn

III

Chi phí xây dựng cơ
bản dở dang
IV
.
Các khoản ký quỹ, ký
cược dài hạn


đối (%)

A. Nợ phải trả
(300=310+320+330)

I.

Nợ ngắn hạn

II

Nợ dài hạn

III

Nợ khác 1.2.3.2. Phân tích quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn
Trên lý thuyết, nguồn vốn của một doanh nghiệp luôn bảo đảm đầy đủ cho mọi hoạt
động có nghĩa là:
Tài sản lưu động + Tài sản cố định = Nguồn vốn chủ sở hữu
Nếu lấy ký hiệu trên bảng cân đối kế toán ta có :
(I + IV + V + VI)A tài sản + IB tài sản = B nguồn vốn chủ sở hữu
Trong thực tế hiếm có doanh nghiệp nào được như vậy mà thường chỉ xảy ra một trong
hai trường hợp sau:
Trường hợp 1: (I + IV + V + VI)A tài sản + IB tài sản > B nguồn vốn chủ sở hữu
Thể hiện doanh nghiệp thiếu vốn để trang trải cho tài sản của mình. Để hoạt động kinh
doanh bình thường , doanh nghiệp phải huy động thêm vốn từ các khoản vay hoặc đi
chiếm dụng vốn từ đơn vị khác.
Trường hợp 2: (I + IV + V + VI)A tài sản + IB tài sản < B nguồn vốn chủ sở hữu
Trường hợp này vốn chủ sở hữu không sử dụng hết cho tài sản, nên đã bị các đối tượng
và doanh nghiệp khác chiếm dụng hoặc số vốn thừa được doanh nghiệp đầu tư cho các
hoạt động khác ngoài sản xuất .
1.2.3.3. Vốn luân chuyển thuần (hoạt động thuần) là chỉ tiêu phản ánh phần
chênh lệch giữa tổng giá trị thuần của tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn với tổng số
nợ ngắn hạn.Một doanh nghiệp muốn hoạt động không bị gián đoạn thì cần thiết phải
duy trì một mức vốn luân chuyển hợp lý để thỏa mãn các khoản nợ ngắn hạn, dự trữ
hàng tồn kho đầy đủ. Vốn hoạt động thuần càng lớn thì khả năng thanh toán của doanh
nghiệp càng cao. Tuy nhiên nếu vốn hoạt động thuần quá cao sẽ làm giảm hiệu quả đầu
tử vì lượng tài sản lưu động quá nhiều so với nhu cầu và vì phần dư này không làm tăng
thêm thu nhập doanh nghiệp. Vốn hoạt động
thuần

Số đầu kỳ Số cuối kỳ
nguồn vốn Số tuyệt
đối
Tỷ trọng
(%)
Số tuyệt
đối
Tỷ
trọng(%)
A

Nợ phải trả
I Nợ ngắn hạn
II

Nợ dài hạn
III


Bảng 1.4: Mẫu phân tích cơ cấu tài sản của doanh nghiệp
Số đầu kỳ Số cuối kỳ
tài sản Số tuyệt
đối
Tỷ trọng
(%)
Số tuyệt
đối
Tỷ
trọng(%)

A
V

Tài sản lưu động khác

B

Tài sản cố định và đầu tư dài hạn

Tổng cộng tài sản

(tài liệu sử dụng để phân tích là Bảng cân đối kế toán phần “tài sản”

1.2.4.3. Phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có tài
sản. Các tài sản này được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay - nợ.
Việc cung ứng đầy đủ nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh là một vấn đề
cốt yếu để đảm bảo cho quá trình kinh doanh liên tục và có hiệu quả. Do vậy cần phải
tập hợp các biện pháp tài chính cần thiết cho việc huy động và hình thành nguồn vốn.

- Nợ
- Đầu tư ngắn hạn
- Hàng tồn kho
-VV
- Vay ngắn hạn
- Nợ ngắn hạn
- Chiếm dụng bất hợp
pháp
Tạm thời

Để phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh,
trước hết cần liệt kê tất cả các nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong thời kỳ (kỳ kế
hoạch và kỳ báo cáo) để biết được tình hình biến động của nguồn vốn trên. Từ đó đánh
giá tình hình bảo đảm nguồn vốn trên cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đánh giá
được tính hợp lý của sự biến động về nguồn vốn. Đối với các khoản chiếm dụng bất hợp
pháp, trong bất kỳ trường hợp nào cũng cho thấy hoạt động tài chính của doanh nghiệp
là bất thường.
Tiếp theo, so sánh tổng nhu cầu về tài sản (tài sản cố định và tài sản lưu động)
với nguồn vốn chủ sở hữu hiện có đủ hoặc lớn hơn tổng số nhu cầu về tài sản thì doanh
nghiệp cần sử dụng số thừa này một cách hợp lý (đầu tư vào tài sản lao động, tài sản cố
định, hoạt động kinh doanh, trả nợ vay ) tránh bị chiếm dụng vốn. Ngược lại, khi
nguồn vốn không đáp ứng đủ nhu cầu về tài sản thì doanh nghiệp có biện pháp huy động và sử dụng phù hợp (huy động nguồn tài trợ tạm thời hợp pháp hoặc giảm quy mô
đầu tư tránh đi chiếm dụng vốn bất hợp pháp. 1.2.5. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán
1.2.5.1. Phân tích tình hình thanh toán

rõ nguyên nhân khê đọng các khoản phải trả nhằm sớm có biện pháp xử lý công nợ, làm
lành mạnh hoá tình hình tài chính.
- Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu (%)
Tỷ suất nợ phải trả tổng
quát

=
Tổng số nợ phải trả
x 100%
Vốn chủ sở hữu Để có nhận xét , đánh giá đúng đắn về tình hình thanh toán của doanh nghiệp,
khi phân tích còn phải sử dụng các tài liệu hạch toán hàng ngày nhằm:
- Xác định tính chất , thời gian và nguyên nhân các khoản phải thu, phải trả;
- Các biên pháp mà đơn vị áp dụng để thu hồi nợ và thanh toán nợ;
- Nguyên nhân dẫn đến các khoản tranh chấp nợ phải thu , phải trả
Có thể lập bảng phân tích theo mẫu sau:
Bảng 1.6: Bảng phân tích tình hình thanh toán các khoản nợ phải thu
và nợ phải trả

Chỉ tiêu
Tổng số còn phải thu hay
phải trả
Số nợ quá hạn
Đầu
kỳ

- Vay dài hạn
- Nợ dài hạn
2.2. Nợ ngắn hạn
- Vay ngắn hạn
- Phải trả cho người bán - Người mua trả trước
Doanh thu nhận trước
- Phải trả công nhân viên
- Thu
ế và các khoản nộp Nhà
nước

- Phải trả nội bộ
- Phải trả khác
Tổng cộng

1.2.5.2. Phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán
Nhu cầu và khả năng thanh toán của doanh nghiệp là cơ sở đánh giá tình hình
thanh toán của doanh nghiệp hiện tại và triển vọng trong tương lai. Để phân tích đầu
tiên cần tính ra và so sánh số đầu kỳ, số cuối kỳ các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh
toán như:
- Hệ số thanh toán tổng hợp
- Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn
- Hệ số thanh toán của tài sản lưu động
- Hệ số thanh toán nhanh
Trong đó quan trọng là hai chỉ tiêu hệ số thanh toán nhanh và hệ số thanh toán
tổng hợp. Sau đó dựa vào các tài liệu hạch toán liên quan, tiến hành thu thập số liệu liên
quan đến các khoản có thể dùng để thanh toán với các khoản phải thanh toán của doanh

hình tài chính bình thường hoặc khả quan. Nếu H
k
<1

chứng tỏ doanh nghiệp không có
khả năng thanh toán. H
k
càng nhỏ bao nhiêu thì doanh nghiệp càng mất dần khả năng
thanh toán bấy nhiêu. Khi H
k
= 0 thì doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và bị phá
sản.
- Hệ số thanh toán nhanh (H
n
):
Hệ số khả năng thanh
toán nhanh (Hn)

=
Tổng số vốn bằng tiền và các khoản đầu tư
ngắn hạn
Tổng số nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán nhanh cho biết với số vốn bằng tiền và các chứng
khoán ngắn hạn có thể chuyển đổi nhanh bằng tiền mặt hiện có, doanh nghiệp có điều
kiện thanh toán kịp thời các khoản nợ ngắn hạn hay không. Trị số này nếu lớn khả năng
thanh toán của doanh nghiệp tương đối khả quan, còn nếu nhỏ cho thấy doanh nghiệp
còn khó khăn cho thanh toán công nợ và do đó phải bán gấp hàng hoá, sản phẩm để trả
nợ vì không đủ tiền để thanh toán.
Tuy nhiên nếu tỷ suất này quá lớn sẽ không tốt vì nó cho thấy vốn bằng tiền quá
nhiều vòng quay vốn chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status