Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện lý nhân tỉnh hà nam - Pdf 16

Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
LỜI NÓI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu và rộng hậu WTO, lại bị ảnh hưởng
bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngành Ngân hàng Việt Nam đang phải
đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Nâng cao chất lượng dịch vụ và đa
dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đang là vấn đề sống còn trong tồn tại
và phát triển của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính nói chung và các
ngân hàng nói riêng.
Đối với các ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng
trung – dài hạn nói riêng là hoạt động tạo ra doanh thu và lợi nhuận chủ yếu,
quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Tuy nhiên, do những yếu
tố khách quan lẫn chủ quan, hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thương mại
nước ta hiện nay còn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Những rủi ro đó khi phát sinh sẽ
không chỉ ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của mỗi ngân hàng mà còn ảnh
hưởng dây chuyền tới sự ổn định và phát triển của cả nền kinh tế. Chính vì vậy
nâng cao chất lượng tín dụng là mối quan tâm của không chỉ các nhà lãnh đạo
ngân hàng mà còn là của các nhà quản lý kinh tế.
Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Lý Nhân
tỉnh Hà Nam là một đơn vị hoạt động kinh doanh về nội tệ và ngoại tệ, phần lớn
các khoản vay trung và dài hạn ở đây là cho vay nội tệ. Do vậy trước sự biến
động của nền kinh tế nước ta, ngân hàng nông nghiệp huyện Lý Nhân tỉnh Hà
Nam cũng đã gặp phải không ít những khó khăn, vướng mắc và những rủi ro vốn
có trong hoạt động cho vay của mình. Nhận thức được những rủi ro trong hoạt
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
1
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
động tín dụng trung – dài hạn cũng như sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng
tín dụng, với những kiến thức đã được trang bị trong trường cùng những kinh
nghiệm thực tiễn khi thực tập, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất
lượng tín dụng trung – dài hạn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát

Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG VÀ TÍN DỤNG
TRUNG – DÀI HẠN
1.1. Tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm về tín dụng
Ngân hàng bắt nguồn từ việc rất đơn giản là giữ các đồ vật quý cho những
người sở hữu nó tránh mất mát, đổi lại người chủ sở hữu phải trả cho người cầm
giữ hộ một khoản tiền công. Khi xã hội phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn
thì ngân hàng trở thành nơi giữ tiền cho những người có tiền và cung cấp tiền cho
những người cần tiền. Là trung gian tài chính, ngân hàng huy động vốn nhàn rỗi
trong xã hội và dùng chính tiền đó cho cá nhân và tổ chức vay lại. Tín dụng là
một trong những hoạt động của ngân hàng, hoạt động này mang lại lợi nhuận lớn
cho ngân hàng.
Thuật ngữ “ tín dụng” ra đời cùng với sự xuất hiện của tiền tệ. Tín dụng
xuất phát từ chữ la tinh là CREDO ( tin tưởng, tín nhiệm ). Trong thực tế tín dụng
được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau :
Trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang
chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ
từ người cho vay sang người đi vay.
Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên
cơ sở hoàn trả giữa hai chủ thể. Ví dụ, trong hoạt động thương mại một công ty
bán hàng trả chậm cho một công ty khác, như vậy người bán đã chuyển giao hàng
hóa cho bên mua và theo thỏa thuận, sau một thời gian nhất định bên mua phải
trả tiền co bên bán. Hoặc giao dịch giữa ngân hàng với các định chế tài chính
khác, với doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay và cũng sau
một thời gian nhất định người đi vay phải thanh toán cả gốc và lãi cho ngân hàng.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
4
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng

vốn đó, các chủ thể mở rộng hoạt động kinh doanh, đưa tiền vào nền kinh tế đẩy
mạnh sản xuất và tiêu dùng – hai mắt xích quan trọng của quá trình tái sản xuất
và như thế tín dụng ngân hàng đã thúc đẩy sản xuất phát triển.
Một hệ thống các hình thức tín dụng đa dạng không những thỏa mãn nhu cầu
đa dạng về vốn của nền kinh tế mà còn làm cho sự tiếp cận các nguồn vốn tín
dụng trở nên dễ dàng, tiết kiệm chi phí giao dịch và giảm bớt các chi phí nguồn
vốn cho các chủ thể kinh doanh.
Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả các hình thức tín dụng sẽ tạo sự chủ động
cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, khi nó
không phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tự có của bản thân. Điều này giúp
cho các nhà sản xuất tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và nâng cao năng lực
sản xuất của xã hội.
Khi nền kinh tế có những thay đổi, thông qua việc điều chỉnh các điều kiện tín
dụng, nhà nước có thể thay đổi quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng vận động
của nguồn vốn tín dụng nhờ đó mà ảnh hưởng đến tổng cầu của nền kinh tế cả về
quy mô lẫn kết cấu. Sự thay đổi của tổng cầu dưới tác động của chính sách tín
dụng sẽ tác động ngược lại tới tổng cung và các điều kiện sản xuất khác.
b. Đối với các tổ chức tín dụng
Ngày nay, mặc dù các ngân hàng đã mở rộng các hoạt động như tư vấn, bảo
lãnh…nhưng hoạt động tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ hoạt động
của ngân hàng và là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng đó. Bản thân
ngân hàng sẽ tìm kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất
tiền gửi. Lợi nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của ngân hàng.
1.1.4. Phân loại tín dụng
a. Phân loại theo mục đích vay vốn
Theo căn cứ này thì tín dụng được chia ra các loại sau :
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
6
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
- Cho vay bất động sản : Là loại cho vay liên quan tới việc mua sắm và xây

Cho vay không có bảo đảm : Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ 3. Việc cho vay này dựa trên uy tín của khách
hàng. Với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, khả năng tài chính
mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cho vay mà không cần nguồn thu
nợ bổ sung.
c. Phân loại theo xuất xứ tín dụng
Cho vay trực tiếp : Đây là việc ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có
nhu cầu đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
Cho vay gián tiếp : Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại
các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Loại
cho vay này gồm có chiết khấu thương phiếu, mua các phiếu bán hàng và nghiệp
vụ bao thanh toán.
d. Phân loại theo phương pháp hoàn trả
- Cho vay có thời hạn : Là loại cho vay có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể
theo hợp đồng. Loại cho vay này gồm các loại sau :
+ Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ là loại cho vay thanh toán một lần theo
thời hạn đã thỏa thuận.
+ Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể ( cho vay trả góp ) là loại cho vay mà
khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ.
+ Cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể, việc trả nợ
phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay. Với loại cho vay này khách
hàng có thể trả nợ trước hạn nhưng ngân hàng được quyền thu lãi toàn bộ kỳ hạn
trả nợ theo hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
8
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
- Cho vay không có thời hạn cụ thể : Ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi
vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý,
thời gian này có thể thỏa thuận trong hợp đồng.
e. Phân loại theo thời hạn cho vay

Trong tín dụng trung dài hạn là các công trình, hạng mục dự án đầu tư, mua
sắm tài sản cố định, nâng cấp hạ tầng cơ sở của các đơn vị kinh tế, nhà nước hay
cá nhân có luận chứng kinh tế tốt, xác thực có tính khả thi cao, những khoản cho
vay dài hạn thường đươch thực hiện cho vay với khách hàng là doanh nghiệp nhà
nước để đầu tư những dự án lớn, công trình trọng điểm quốc gia, những dự án
quy mô lớn như nhà máy thủy điện, nhiệt điện, công trình giao thông, cơ sở hạ
tầng hay lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế. Các khoản tín dụng dài hạn thường
áp dụng phương pháp giải ngân và trả nợ nhiều lần.
1.2.2 Các đặc trưng của tín dụng trung – dài hạn
a. Mục đích và đối tượng cho vay
Khác hẳn với loại hình tín dụng ngắn hạn chủ yếu dùng để bổ xung vốn lưu
động cho các doanh nghiệp, tín dụng trung dài hạn được dùng để tài trợ cho nhu
cầu tài sản cố đính, tài sản lưu động thường xuyên và các dự án có thời gian
tương đối dài. Mục đích của cho vay trung dài hạn là các chi phí cấu thành trong
tổng mức vốn đầu tư của dự án bao gồm giá trị vật tư, máy móc thiết bị, công
nghệ, chi phí nhân công…Tuy nhiên, ngân hàng thương mại sẽ không cho vay
toàn bộ các chi phí mà khách hàng sẽ phải bỏ ra chỉ cho vay theo một tỷ lệ nhất
định , thường là 70% giá trị tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng.
b. Thời hạn cho vay
Được tính bắt đầu từ khi khách hàng nhận được vốn vay cho đến khi khách
hàng hoàn thành nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng.Tín dụng trung, dài
hạn do mục đích của người đi vay chủ yếu là đầu tư vào tài sản cố định hoặc các
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
10
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
dự án có thời gian thu hồi vốn chậm.Trên thực tế,thời hạn cho vay của các khoản
vay trung dài hạn thường có hai trường hợp:
- Khoản vay phát huy ngay hiệu quả sau khi số tiền vay được sử dụng, thời
hạn cho vay chính là thời gian thu hồi
- Khoản vay phải trải qua một thời gian mới phát huy được hiệu quả, khách

- Vốn đi vay trung dài hạn : NHTM có thể tìm nguồn vốn TDH bằng cách
vay NHNN hoặc vay nợ nước ngoài. Tuy nhiên việc vay NHNN thường phụ
thuộc vào chính sách tiền tệ của NHNN trong từng thời kì. Vay nợ nước ngoài
thường chỉ áp dụng cho các dự án lớn , hiểu quả kinh tế cao bởi nguồn vay nợ
nước ngoài thường lớn, lãi suất chấp nhận được nhưng các NHTM cần phải tính
đến yếu tố rủi do không thanh toán được nợ hoặc rủi do tỷ giá
- NHTM cũng có thể sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay
TDH nhưng chỉ theo một tỷ lệ nhất định vì việc làm này có thể ảnh hưởng đến
khả năng thanh khoản của NHTM. Do đó , NHNN đã ban hành quyết định
457/2005/QĐ – NHNN,theo đó NHTM chỉ được phép sử dụng 40% nguồn vốn
ngắn hạn để cho vay TDH ( đối với các TCTD thì tỷ lệ này là 30%)
- Vốn nhận ủy thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình chuyển dịch
cơ cấu đầu tư của nhà nước , tổ chức kinh tê tài chính tín dụng, xã hội trong và
ngoài nước. Nguồn vốn này có đặc điểm và tình ổn định không cao, các dự án
đầu tư thường chỉ định trước các NHTM chỉ là trung gian đóng vai trò quản lý,
giải ngân và thu hồi vốn đầu tư, họ không có quyền lựa chọn dự án đầu tư.
d. Lãi suất cho vay
Lãi suất phụ thuộc vào 4 yếu tố sau:
- Mức lãi suất chung trên thị trường : Các NHTM luôn phải căn cứ vào mức
lái suất chung để quyết định lãi suất cho vay.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
12
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
- Số tiền vay : Số tiền khách hàng vay càng lớn thì lãi suất lại thường thấp hơn
do các chi phí dàn xếp thẩm định và quản lý các khoản vay có quy mô lớn, rẻ
hơn các khoản vay có quy mô nhỏ tính trên giá trị khoản vay. Thêm vào đó, các
khoản vay có quy mô lớn thường dành cho các khách hàng lớn, có tình hình kinh
doanh tốt, mức độ rủi ro tín dụng thấp.
- Thời hạn vay : Nếu thời hạn vay kéo dài sẽ làm nảy sinh nhiều rủi ro và phát
sinh nhiều chi phí nên các khoản vay có thời gian càng dài thì lái suất cho vay sẽ

Trong nền kinh tế thị trường muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh
nghiệp phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện để nâng cao năng suất lao động,
giảm thiểu chi phí, giảm giá thành để đảm bảo sức cạnh tranh của sản phẩm trên
thị trường, với mục tiêu là thắng trong cạnh tranh thu được lợi nhuận cao. Về dài
hạn, các doanh nghiệp luôn cần 1 lượng vốn lớn để mở rộng sản xuất, xây dựng
nhà xưởng, đầu tư mua sắm máy móc, trang thiết bị, đổi mới công nghê… Các
doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn tài trợ cho các hoạt động đó bằng nhiều
hình thức như :
- Dùng nguồn vốn tự có
- Phát hành cổ phiếu, trái phiếu
- Đi vay các NHTM
Đối với biện pháp tài trợ bằng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp : Biện pháp
này rất hạn chế, vì không phải tất cả các doanh nghiệp đều có đủ vốn để thực hiện
các hoạt động này.
Đối với biện pháp phát hành cổ phiếu trái phiếu : Đây là biện pháp được sử
dụng ở các nước có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên sử dụng biện pháp này các
doanh nghiệp phải cân nhắc liệu các cổ phiếu, trái phiếu này có được nhà đầu tư
chấp nhận hay không, nó còn phụ thuộc vào những yếu tố như : uy tín của doanh
nghiệp, sự phát triển của thị trường chứng khoán, tâm lý của nhà đầu tư… Mặt
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
14
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
khác, cũng có các doanh nghiệp không muốn phát hành cổ phiếu để tránh trường
hợp phải phân chia quyền kiểm soát cho các cổ đông mới.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, nhu cầu vốn đầu tư thì lớn trong khi đó
vốn tích lũy của các doanh nghiệp còn quá ít, tâm lý đầu tư trực tiếp của công
chúng vào các doanh nghiệp còn hạn chế, thị trường chứng khoán chưa phát
triển, cho nên các doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư chủ yếu dựa vào nguồn vốn
tự có của mình và phần còn lại phải dựa vào sự tài trợ của hệ thống NHTM. Có
thể nói tín dụng TDH thực sự trở thành một công cụ tài trợ hữu hiệu đáp ứng các

các nước đang phát triển hay là nền kinh tế của các nước phát triển. Các nước có
nền kinh tế phát triển thì cần đầu tư TDH để nâng cao, phát triển kinh tế theo
chiều sâu. Các nước có nền kinh tế đang phát triển thì cần phải đầu tư phát triển
kinh tế theo chiều rộng. Do đó, có thể thấy rõ đối với nền kinh tế của 1 nước
đang phát triển như Việt Nam thì hoạt động tín dụng TDH có những đóng góp to
lớn đối với nền kinh tế.
- Tín dụng TDH góp phần quan trọng vào sự mở rộng và phát triển của các
doanh nghiệp mà sự phát triển của các doanh nghiệp góp phần tạo nên sú phát
triển của cả nền kinh tế. Khi các doanh nghiệp mới được thành lập hoặc mở rộng
quy mô thì nền kinh tế sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm, đời sống người lao động
sẽ từng bước được cải thiện. Thêm vào đó sự phát triển sản xuất sẽ nâng cao chất
lượng mẫu mã sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh và thúc đẩy thương mại trong
nước cũng như thương mại quốc tế phát triển. Điều này sẽ tạo điều kiện nâng cao
nguồn thu cho ngân sách và nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia, góp phần cải thiện
cán cân thương mại và thanh toán quốc tế.
- Thông qua huy động và cho vay có định hướng, hoạt động tín dụng TDH
góp phần to lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bởi vì tín dụng TDH là 1
công cụ quan trọng mà thông qua nó các NHTM sẽ tiến hành tài trợ cho các
ngành kinh tế kém phát triển và giúp phát triển các nền kinh tế mũi nhọn, trọng
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
16
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
điểm. Các khoản tín dụng này sẽ tạo điều kiện xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý,
khai thác triệt để các nguồn lực để tập trung phát triển nền kinh tế theo hướng có
lợi. Thông qua đó, cơ cấu kinh tế sẽ được chuyển dịch theo hướng hợp lý, đẩy
mạnh tốc đọ phát triển của nền kinh tế góp phần đẩy mạnh sự nghiệp CNH –
HĐH đất nước mà Đảng và Chính phủ đã đề ra.
Như vậy, có thể thấy hoạt động tín dụng TDH có vai trò quan trọng đối với
không chỉ hai bên ngân hàng và doanh nghiệp mà còn với cả nền kinh tế. Với
những đóng góp to lớn cho nền kinh tế, tín dụng TDH cần phải được quan tâm và

bàn bạc cùng nhau chọn ra một tổ chức tín dụng làm đầu mối. Nhìn chung mọi
quan hệ về tín dụng giữa bên đồng tài trợ và bên nhận tài trợ đều được thông qua
tổ chức tín dụng làm đầu mối.
Bên nhận tài trợ : thường là một pháp nhân hoặc cá nhân có nhu cầu vay vốn
đàu tư cho dự án.
+ Tín dụng trực tiếp
Đây là hình thức tín dụng trung – dài hạn phổ biến trong nền kinh tế thị
trường. Ngân hàng tiến hành mọi hoạt động và tự chịu trách nhiệm đối với từng
dự án đầu tư của khách hàng mà họ đã lựa chọn để tài trợ. Thực tế cho thấy việc
lựa chọn dự án tốt là yếu tố quyết định nhất của hình thức tín dụng này.
+ Tín dụng tuần hoàn
Tín dụng tuần hoàn được coi là tín dụng trung – dài hạn khi thời hạn của hợp
đồng kéo dài từ một đến vài năm và người vay rút tiền ra kh cần và được trả nợ
khi có nguồn, trong thời gian hợp đồng có hiệu lực.
Trong các doanh nghiệp cổ phần khi có nhu cầu về vốn trung – dài hạn, doanh
nghiệp có thể gia tăng việc phát hành cổ phiếu nhưng cũng có thể vay ngân hàng
dưới hình thức tín dụng tuần hoàn, sau đó sử dụng phần lợi nhuận tính trả cho cổ
đông đẻ trả nợ, đồng thời tăng vốn góp của cổ đông lên. Thực chất đây là một
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
18
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
hình thức cải biến cơ cấu tàu chính của doanh nghiệp, chuyển nợ vay ngân hàng
thành vốn trung – dài hạn.
Doanh nghiệp vay vốn cũng có thể yêu cầu ngân hàng chuyển tín dụng tuần
hoàn thành tín dụng trung – dài hạn và thậm chí có thể ra hạn kéo dài nhiều năm
với điều kiện có tài khoản đảm bảo cho khoản vay một cách chắc chắn. Việc
chuyển đổi này thường được diễn ra vào cuối giai đoạn của hợp đồng và điều đó
còn phụ thuộc vào mức độ hợp đồng và tình hình tài chính của khách hàng vay
vốn.
- Tín dụng thuê mua

được xây dựng trước.
Trong nền kinh tế thị trường,người ta đưa ra rất nhiều quan niệm khác nhau
về chât lượng sản phẩm nhưng khái niệm chất lượng này xuất phát và gắn bó chặt
chẽ với các yếu tố cơ bản của thị trường như nhu cầu cạnh tranh, giá cả…Theo
hiệp hội tiêu chuẩn Pháp thì chât lượng là năng lực của sản phẩm hoặc một dịch
vụ nhằm thõa mãn nhu cầu của người sử dụng,còn theo Philip Croby- một
chuyên gia hàng đầu của Mỹ về quản lý chất lượng thì: “Chất lượng là sự phù
hợp với yêu cầu” Theo ông, yêu cầu ở đây là yêu cầu của người tiêu dùng và
người sản xuất.Theo tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hóa ( ISO ) trong bộ tiêu
chuẩn ISO đã đưa ra định nghĩa như sau: “ Chất lượng là tổng thể các chỉ tiêu
những đặc trưng của mình thể hiện được sư thõa mãn nhu cầu trong những biểu
hiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng của sản phảm mà người tiêu
dùng mong muốn”.
Sản phẩm dịch vụ ngân hàng là vấn đề vô cùng phong phú, phức tạp do tính
đa dạng của hoạt động kinh doanh ngân hàng.Về cơ bản,một sản phẩm do một
tổ chức cung cấp phải có khả năng thỏa mãn một nhu cầu nào đó của khách
hàng .Sản phẩm ngân hàng mang nhiều đặc điểm khác với các sản phẩm của các
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
20
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
ngành công nghiệp.Tính vô hình ,tính không thể tách biệt,tính không ổn định và
khó xác định nên việc xác định chất lương tín dụng là rất khó.Trên cơ sở các
quan niệm chất lượng trên ta có thể hiểu chất lượng TDNH như sau: “Chất lượng
tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng
trong quan hệ tín dụng,đảm bảo an toàn hay hạn chế rủi ro về vốn,tăng lợi nhuận
của ngân hàng, phù hợp và phục vụ sự phát triển KT-XH.
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu,vừa mang tính định tính,vừa mang tính
định lượng. Chất lượng tín dụng được hiểu là sư hiệu quả của việc sử dụng khoản
vốn vay mà ngân hàng thương mại đã cấp cho khách hàng. Một khoản tín dụng
được coi là có chất lượng tốt khi nó mang lại lợi ích cho cả khách hàng ,ngân

NHTM. Việc mở rộng tín dụng TDH là một việc làm cần thiết để gia tăng thu
nhập và nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngân hàng và đáp ứng ngày càn tốt
hơn nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, các khoản cho vay trung –
dài hạn có qui mô lớn, thời hạn cho vay dài thường chứa đựng nhiều rủi ro.
Do đó, việc nâng cao chất lượng các khoản tín dụng luôn là mối quan tâm của
các ngân hàng thương mại.
Chất lượng tín dụng trung –dài hạn được nâng cao cũng sẽ giúp cho ngân
hàng thực hiện tốt hoạt động kinh doanh của mình. Khi đó, NHTM sẽ có thể
giảm được các chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý và các thiệt hại do không thu
hồi được vốn cho vay. Từ đó đảm bảo được khả năng thanh toán và lợi nhuận của
ngân hàng. Ngoài ra ,khả nă cấp tín dụng sẽ gia tăng và thu hút được nhiều khách
hàng, NHTM có thể cung cấp nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ khác cho khách
hàng. Ngân hàng sẽ ngay càng nâng cao được hình ảnh và uy tín của mình,tạo thế
mạnh cho ngân hàng trong cạnh tranh.
Đảm bảo chất lượng tín dụng TDH sẽ tạo điều kiện phát triển nền kinh tế đất
nước. Khi chất lượng tín dụng được đảm bảo thì nguồn vốn cho vay sẽ tăng, sẽ
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
22
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
có ngay càng nhiều khách hàng tiếp cận được với nguồn vốn tham gia đầu tư
phát triển sản xuất, từ đó đem lại lợi ích cho nền kinh tế.
Với những ưu điểm trên, việc cũng cố và nâng cao chất lượng tín dụng
trung dài hạn là cần thiết cho sự phát triển lâu dài của ngân hàng, đem lại thu
nhâp về nhiều lợi ích cho nền kinh tế. Vì thế, chất lượng tín dụng cần phải được
chú ý nâng cao.
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung-dài hạn.
Chất lượng tín dụng ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng trung dài hạn
nói riêng của mõi ngân hàng được đánh giá thông qua nhiều chỉ tiêu khác nhau
mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh nhất định .
a. Đánh giá chất lượng tín dụng trung- dài hạn cua ngân hàng từ phía người

gay gắt như hiện nay, tiêu chí này đôi khi quyết định sự thành bại của một
phương án kinh doanh. Vì vậy tiêu chí này ảnh hưởng rất lớn tới việc lựa chọn
ngân hàng để vay vốn của khách hàng. Do vậy, để trách việc mất đi những khách
hàng tốt, nâng cao chất lượng tín dụng nói chung, các ngân hàng cần phải rất chú
ý đến chỉ tiêu này, cần nỗ lực tìm mọi giải pháp để đơn giản vẫn đảm bảo sự an
toàn tín dụng cho ngân hàng.
* Sự đa dạng của loại hình tín dụng trung – dài hạn của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của
khách hàng trong quan hệ tín dụng. Điều này đồng nghĩa với việc để nâng cao
chất lượng tín dụng, ngoài những yếu tố khác ngân hàng cần đặc biệt chú trọng
tới sự đa dạng trong chủng loại sản phẩm tín dụng. Do vậy, các ngân hàng cần
liên tục nghiên cứu để tìm ra các sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
b. Đánh giá chất lượng tín dụng rung – dài hạn từ phía người cho vay ( ngân
hàng )
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
24
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
- Chỉ tiêu doanh số cho vay trung – dài hạn.
Đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền mà ngân hàng đã sử dụng để
cho vay trung – dài hạn. Chỉ tiêu này mang tính chất thời kỳ, thường được tính
cho một năm. Doanh số cho vay lớn và tốc độ tăng nhanh cho thấy hoạt động tín
dụng trung – dài hạn của ngân hàng đang rất tốt và ngày càng được mở rộng.
- Chỉ tiêu dư nợ trung – dài hạn.
Chỉ tiêu này là chỉ tiêu tuyệt đối mang tính thời điểm, phản ánh số tiền trung –
dài hạn mà ngân hàng đã giải ngân cho khách hàng nhưng chưa thu hồi do khoản
vay chưa đến hạn thanh toán hoặc khoản vay đang bị nợ quá hạn. Mặc dù bao
gồm cả những khoản vay quá hạn nhưng chỉ tiêu dư nợ nói chung và dư nợ tín
dụng trung – dài hạn nói riêng được các ngân hàng rất quan tâm. Chỉ tiêu này cho
biết quy mô tín dụng trung – dài hạn của một ngân hàng và thông qua việc so
sánh giữa các thời kỳ khác nhau ngân hàng sẽ đánh giá được tốc độ phát triển tín


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status