phân lập và tuyển chọn vi khuẩn sinh bacteriocin từ động vật thân mềm hai vỏ sống ở biển - Pdf 25


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
***
HỒ THỊ HỒNG NHI
PHÂN LẬP VÀ TUYỂN CHỌN VI KHUẨN SINH
BACTERIOCIN TỪ ĐỘNG VẬT THÂN MỀM
HAI VỎ SỐNG Ở BIỂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Nha Trang - 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
***


triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) tài trợ - Trường Đại học Nha
Trang chủ trì - TS. Nguyễn Văn Duy làm chủ nhiệm, được thực hiện từ tháng 02 năm
2012 đến tháng 03 năm 2013 là chính xác. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận
văn hoàn toàn trung thực và chưa được ai công bố trong bất cứ công trình khoa học
nào khác tới thời điểm này. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc.

Tác giả luận văn
HỒ THỊ HỒNG NHI ii

Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và sự kính trọng tới thầy hướng dẫn TS.
Nguyễn Văn Duy – Viện Công nghệ Sinh học và Môi trường - Trường Đại học Nha
Trang, đã định hướng và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cám ơn Ban Giám hiệu nhà trường, các thầy cô trong Khoa

Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT v
DANH MỤC BẢNG vi
DANH MỤC HÌNH vii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Tổng quan về bacteriocin 3
1.1.1. Khái niệm về bacteriocin 3
1.1.2. Phân loại bacteriocin 4
1.1.2.1. Bacteriocin của vi khuẩn 6
1.1.2.2. Bacteriocin từ sinh vật cổ (Archaea) 8
1.1.3. Một số tính chất hóa lý của bacteriocin 9
1.1.3.1. Độ bền enzyme 9
1.1.3.2. Độ bền nhiệt 10
1.1.3.3. Độ bền pH 10
1.1.4. Cơ chế hoạt động của bacteriocin 10
1.1.5. Ứng dụng của bacteriocin 12
1.1.5.1. Bảo quản thực phẩm 12
1.1.5.2. Bảo vệ sức khỏe con người và vật nuôi trên cạn 12
1.2. Triển vọng sử dụng vi khuẩn sinh bacteriocin làm thuốc đa năng trong nuôi
trồng thủy sản 14
1.2.1. Tình hình dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản 14
1.2.2. Những giải pháp mới phòng trừ dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản
bền vững 15
1.2.3. Triển vọng sử dụng vi khuẩn sinh bacteriocin dùng làm thuốc đa năng
trong nuôi trồng thủy sản 17
1.3. Tình hình nghiên cứu bacteriocin từ vi khuẩn biển 20
1.3.1. Trên thế giới 20
1.3.2. Tại Việt Nam 25

3.4. Ảnh hưởng của enzyme, nhiệt độ và pH đến hoạt tính kháng khuẩn của các
chủng tuyển chọn 45
3.5. Đặc điểm hình thái khuẩn lạc của các chủng nghiên cứu 50
3.6. Định danh các chủng vi khuẩn sinh bacteriocin dựa trên trình tự đoạn gen 16S
rDNA và rpoB 51
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 59

v DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Ký hiệu Chữ viết tắt
1 ATP Adenosin triphosphat
2 BLIS Bacteriocin-like substance (chất tương tự bacteriocin)
3 CFU Colony Forming Unit (đơn vị hình thành khuẩn lạc)
4 DNA Deoxyribonucleotide Acid
5 FAO
Food and Agriculture Organization (Tổ chức LHQ về
lương thực và nông nghiệp)
6 FDA
Food and Drug Administration (Cục quản lý thực phẩm và
dược phẩm Hoa Kỳ)
7 GRAS
Generally recognized as safe (Được công nhận rộng rãi là
an toàn)
8 NTTS Nuôi trồng thủy sản
9 OD Optical Density (Mật độ quang)
10 TCBS Thiosulfate Citrate Bile Salts Sucrose

trình tự tương đồng trên Genbank bằng công cụ BLAST 56
Bảng 3.11. So sánh trình tự đoạn gen rpoB của chủng H77 (904 nucleotide) với các
trình tự tương đồng trên Genbank bằng công cụ BLAST 56
vii DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Cấu trúc của một số bacteriocin đặc trưng 6
Hình 1.2. Cơ chế hoạt động của bacteriocin 11
Hình 1.3. Quy trình tuyển chọn một probiotic trong nuôi trồng thủy sản 19
Hình 1.4. Số lượng bài báo nghiên cứu về bacteriocin trong mỗi chu kỳ 10 năm từ
1949-2010 20
Hình 2.1. Sơ đồ các nội dung nghiên cứu chính của luận văn. 36
Hình 3.1. Khuẩn lạc trên đĩa thạch ở độ pha loãng 10
-6
sau 24 giờ nuôi cấy 37
Hình 3.2. Tỉ lệ các chủng vi khuẩn có hoạt tính kháng với vi khuẩn chỉ thị ở ba lần
phân lập 39
Hình 3.3. Vòng kháng khuẩn của các chủng vi khuẩn phân lập đối với chủng chỉ thị
Vibrio alginolyticus V3.3 trên môi trường TCBS 40
Hình 3.4. Vòng kháng khuẩn của các chủng vi khuẩn phân lập đối với chủng chỉ thị
Entercoccus faecalis B1.1 trên môi trường TSA 40
Hình 3.5. Vòng kháng khuẩn của các chủng vi khuẩn phân lập đối với chủng chỉ thị V.
parahaemolyticus C1 trên môi trường TCBS 41
Hình 3.6. Vòng kháng khuẩn của dịch bacteriocin của chủng H18 và H76 sau khi xử lý
với proteinase K và trypsin, vi khuẩn chỉ thị là Entercoccus faecalis B1.1 42
Hình 3.7. Vòng kháng khuẩn của dịch bacteriocin của hai chủng H18, X1.10 sau khi

hoặc nuôi công nghiệp với tần suất khá thường xuyên. Trong các tác nhân gây bệnh thì
vi khuẩn, điển hình là các loài Vibrio, trong lĩnh vực nuôi biển được coi là một trong
những nguyên nhân chính [90]. Hơn nữa, cùng với biến đổi khí hậu toàn cầu, những
khó khăn đối với các vi khuẩn gây bệnh ngày càng tăng lên, bởi vì ở nhiệt độ cao hơn
thì khả năng gây bệnh và truyền nhiễm cũng tăng lên [16, 32].
Động vật thủy sản bị nhiễm bệnh thường phải dùng một số loại kháng sinh như
tetracycline, streptomycin, rifampicin, oxytetraxycline để điều trị. Những loại kháng
sinh này nếu sử dụng trong giai đoạn sản xuất giống thường làm cho ấu trùng chậm
lớn, còi cọc, các giai đoạn biến thái xảy ra không đều, dẫn đến tỷ lệ sống của ấu trùng
thấp. Sử dụng kháng sinh trong quá trình nuôi thương phẩm dẫn đến hiện tượng tích
lũy kháng sinh trong sản phẩm sau thu hoạch làm giảm chất lượng, chi phí sản xuất
tăng trong khi giá trị sản phẩm giảm. Việc lạm dụng kháng sinh trong nghề nuôi hiện
nay khá phổ biến nên hiện tượng kháng kháng sinh của nhiều chủng vi khuẩn đang là
vấn đề hết sức nan giải [55].
Chính vì vậy, một xu hướng mới hiện nay là việc thay thế sử dụng các chất
kháng sinh phổ rộng truyền thống bằng các chế phẩm sinh học (probiotic), chất kháng
sinh thế hệ mới hay các loại vaccine. Tuy nhiên việc sử dụng vaccine thường tốn kém
lớn về chi phí sản xuất, chi phí nhân công, hơn nữa các động vật bậc thấp chưa có hệ
miễn dịch đặc hiệu nên việc sử dụng vaccine rất khó khăn [13]. Do vậy sử dụng các
chế phẩm vi sinh có thể là một giải pháp hiệu quả, nhằm giúp kìm hãm sự phát triển
của các vi khuẩn có hại nhờ tính cạnh tranh của các chủng có lợi, nâng cao khả năng
chống chịu bệnh của vật nuôi, đồng thời còn có tác dụng cải thiện môi trường nuôi và
an toàn đối với sức khỏe con người [95]. Hiện nay, việc sử dụng chế phẩm probiotic từ
vi khuẩn sinh bacteriocin có thể là giải pháp thay thế phù hợp do khả năng kháng
khuẩn và tính an toàn của nó.
2

Trong nhiều năm qua bacteriocin thường được thu nhận từ vi khuẩn lactic có
nguồn gốc từ các loại thực phẩm nhằm ứng dụng trong bảo quản thực phẩm. Tuy
nhiên, để ứng dụng trong phòng và trị bệnh cho lĩnh vực nuôi trồng hải sản đòi hỏi vi

Bacteriocin là các peptide kháng khuẩn được tổng hợp trên ribosom của tế bào
vi khuẩn. Chúng có khả năng tiêu diệt các vi khuẩn có quan hệ họ hàng gần gũi với
chủng sinh bactriocin đó [15, 22, 32]. Bacteriocin được sản xuất ở hầu hết các nhóm vi
khuẩn và có thể là tất cả các nhóm cổ khuẩn [90]. Các bacteriocin rất đa dạng về kích
thước, vi khuẩn đích, cơ chế hoạt động, cơ chế tiết, cơ chế miễn dịch. Có thể chia
bacteriocin thành hai nhóm chính: nhóm sản xuất bởi vi khuẩn Gram âm và Gram
dương [51]. Hơn nữa một số nhỏ bacteriocin từ sinh vật cổ cũng đang được nghiên cứu
[90]. Một số loài vi khuẩn sản sinh độc tố có thể có nhiều tính chất giống như
bacteriocin, nhưng chưa có đầy đủ đặc tính của một bacteriocin, những độc tố này
được gọi là “chất ức chế kiểu bacteriocin” hoặc BLIS (Bacteriocin-like inhibitory
substance) [63].
Bacteriocin được Gratia tìm thấy đầu tiên năm 1925 trong quá trình nghiên cứu
tìm cách tiêu diệt vi khuẩn E. coli gây bệnh, kết quả của công trình này đã thúc đẩy
nghiên cứu về chất kháng khuẩn sinh ra từ vi khuẩn. Ông gọi chất phát hiện ra đầu tiên
là Colicin do E. coli sinh tổng hợp nên [36]. Cho đến nay, bacteriocin được sinh bởi cả
vi khuẩn Gram âm và vi khuẩn Gram dương với những đặc điểm khác biệt:
Bacteriocin của vi khuẩn Gram âm: gồm nhiều loại protein khác nhau về kích
thước, nguồn gốc chủng vi sinh vật sản xuất, kiểu tác động và cơ chế miễn dịch.
Bacteriocin của vi khuẩn Gram âm có khả năng kháng khuẩn yếu hơn bacteriocin của
vi khuẩn

Gram dương và bacteriocin được nghiên cứu nhiều nhất là Colicin [46, 90].
Bacteriocin của vi khuẩn Gram dương: các loại bateriocin này cũng đa dạng như
ở vi khuẩn Gram âm. Tuy nhiên chúng khác vi khuẩn Gram âm ở hai điểm sau: việc sản
sinh bacteriocin không nhất thiết làm chết vi sinh vật chủ và sự sinh tổng hợp
bacteriocin của vi khuẩn

Gram dương cần nhiều gen hơn ở vi khuẩn

Gram âm [46, 90].

Ảnh hưởng đến thành phần
cấu tạo màng tế bào
Liên quan đến gen
Cơ chế hoạt động
Tạo lỗ màng, sinh tổng hợp
thành tế bào
Tác động lên màng tế bào
hoặc các vi trí đích nội
bào
Độc tính/ Tác dụng phụ Chưa biết Có Vì những điều nêu trên nên bacteriocin nên được xem là peptide kháng khuẩn,
không phải là kháng sinh.
Ngoài ra còn một sự khác nhau rõ rệt giữa bacteriocin và kháng sinh,
bacteriocin chỉ do vi khuẩn tạo ra và có phổ kháng khuẩn hẹp, chỉ kháng các chủng có
họ hàng gần. Trong khi kháng sinh có thể do các loại vi sinh vật tạo ra như vi khuẩn,
nấm mốc, nấm men và phổ kháng khuẩn của nó rộng cho nên nó cũng có thể tiêu diệt
cả các vi sinh vật có lợi.
Hiện nay nghiên cứu về bacteriocin đã và đang có tiềm năng ứng trong nhiều
lĩnh vực như bảo quản thực phẩm, cải thiện sức khỏe con người và động vật nuôi [1].
1.1.2. Phân loại bacteriocin
Cho đến nay có khoảng 200 loại bacteriocin được xác định, tuy nhiên việc phân
loại các bacteriocin vẫn chưa được xác định rõ ràng và nó vẫn đang là vấn đề tranh cãi.
5

Bacteriocin thường được phân loại dựa trên nhóm vi khuẩn sản sinh ra chúng
(Gram âm, Gram dương), ngoài ra còn có nhóm bacteriocin từ những loài sinh vật cổ
(Archaea) cũng đang được nghiên cứu.


Class IIa-kháng
Listeria
Pediocin PA1
Lớp II
Class IIb-hỗn hợp Carnobacteriocin B2

Type IIIa-enzyme
phân giải
Lysostaphin
Lớp III
Type IIIb-peptide
không phân giải
Helveticin
Vi khuẩn Gram dương
Lớp IV Peptide vòng Enterocin AS-48
[35, 42, 51]
Microhalocin
Halocin A4, C8,
G1 Halocin
Protein halocin Halocin H1, H4
Sinh vật cổ
Sulfolobicin Chưa biết Sulfolobicin
[38, 84]
6

1.1.2.1. Bacteriocin của vi khuẩn
Bateriocin thường được phân loại dựa vào các đặc điểm: chủng vi khuẩn sản
xuất, trọng lượng phân tử của chúng, và tính tương đồng về các amino acid hoặc hệ
gen của nó [32]. Nhìn chung, bacteriocin được chia thành 4 lớp chính như sau:
a. Lớp I là những bacteriocin được gọi là lantibiotic [46]. Lantibiotic là những

divergicin A và acidocin B.
c. Lớp III bao gồm những loại bacteriocin có kích thước lớn hơn, không bền
nhiệt, như là helveticin J hoặc lactacin B [34, 55].
d. Lớp IV là các bacteriocin phức hợp, chúng mang một nửa là lipit hoặc
carbohydrate [36]. Cấu trúc và chức năng của nhóm này chưa được biết nhiều, bao
gồm các bacteriocin như leuconocin S và lactocin 27 [23, 99].
Trong các lớp trên thì lớp I và II được tập trung nghiên cứu để ứng dụng làm
probiotic hơn cả.
Bên cạnh đó, bacteriocin còn được phân thành 4 lớp chính: colicin, bacteriocin
có cấu trúc giống colicin, bacteriocin có cấu trúc giống đuôi phage và microcin (Bảng
1.2). Trong đó các loại colicin từ E.coli được nghiên cứu nhiều nhất [21]. Hơn nữa
chúng còn được sử dụng như là mô hình mẫu để nghiên cứu về cấu trúc, chức năng và
sự tiến hóa của bacteriocin [75, 77].
Colicin
Nhìn chung, các loại colicin là những protein, nhạy cảm với protease và nhiệt.
Chúng có kích thước dao động từ 25 - 90 kDa [73]. Colicin được chia thành hai loại
dựa vào kiểu hoạt động của chúng:
Colicin tạo lỗ màng như là colicin A, B, E1, Ia, Ib, K, E1, 5, chúng kháng các
chủng vi khuẩn nhạy cảm với chúng nhờ vào phương thức tạo các lỗ nhỏ trên màng tế
bào [47].
8

Colicin nuclease bao gồm colicin E2, E3, E4, E5, E6, E7, E8, E9 hoạt động
kháng của chúng dựa vào khả năng phân cắt DNA/ RNA do có hoạt tính của các
enzyme DNAse, RNAse, hoặc tRNAse [47].
Các loại bacteriocin có cấu trúc giống colicin
Các loại bacteriocin giống colicin (pyocin S5) có những đặc điểm tương đồng
với colicin về cấu trúc và chức năng, do đó chúng cũng có kiểu hoạt động tạo lỗ trên
màng tế bào hoặc chúng là những nuclease [64]. Trong nhóm này, Klebicin từ các loài
Klebsiella, S-pyocin của loài Pseudomonas aeruginosa và alveicins của loài Hafnia

kết với những túi giống màng tế bào có kích thước đường kính từ 90 - 80 nm [90].
Cũng giống với một số loại bacteriocin khác, chúng có khả năng bền nhiệt ở nhiệt độ
cao và ít bền khi xử lý với enzyme. Phổ hoạt động của chúng vẫn chưa được biết đến [38].
1.1.3. Một số tính chất hóa lý của bacteriocin
1.1.3.1. Độ bền enzyme
Mỗi loại bacteriocin có thành phần cấu tạo hóa học khác nhau nên sẽ chịu sự
phân cắt đặc hiệu của các enzyme khác nhau. Khi bị phân cắt bởi các enzyme đặc hiệu
này, bacteriocin sẽ bị mất hoạt tính kháng khuẩn. Đây có thể coi là một dấu hiệu xác
định chất kháng khuẩn có phải là bacteriocin hay không [96].
Bảng 1.3. Tính chất hóa lý của một số bacteriocin từ vi khuẩn
Tên bacteriocin Nhiệt độ xử lý Khoảng pH bền Enzyme thủy phân
Megacin A – 216 60°C/30 phút 2 - 7 Chymotripsin, Pepsin, Trypsin
Clostocin A 100°C/30 phút 4 - 9
Trypsin, Chymotripsin,
Pronase P, Rnase, Dnase
Clostocin B 80°C/10 phút 4 - 9
Trypsin, Chymotripsin,
Pronase P, RNAse, DNAse
Clostocin C 80°C/10 phút 4 - 9
Trypsin, Chymotripsin,
Pronase P, RNAse, DNAse
Clostocin D 100°C/30 phút 4 - 9
Trypsin, Chymotripsin,
Pronase P, RNAse, DNAse
Boticin E – S5 100°C/10 phút 1,1 - 9,5
Trypsin, Chymotripsin,
Pronase P, RNAse, DNAse
Boticin P 60°C/30 phút 6,5 - 7,5
Trypsin, RNAse, DNAse,
Alkaline phosphotase,

học của mỗi bacteriocin. Độ bền nhiệt độ và pH rất quan trọng trong quá trình sản xuất
và sử dụng bacteriocin, tùy vào từng loại bacteriocin khác nhau mà người ta lựa chọn
điều kiện nhiệt độ, pH thích hợp sao cho hiệu quả sản xuất và hoạt tính kháng khuẩn
mạnh nhất.
1.1.4. Cơ chế hoạt động của bacteriocin
Cho đến nay thì cơ chế hoạt động của bacteriocin đã được các nhà khoa học
nghiên cứu và công bố.
Bacteriocin có khả năng tiêu diệt các vi khuẩn khác có thể do sự tạo thành các
kênh làm thay đổi tính thấm của màng tế bào. Nhiều loại bacteriocin còn có khả năng
phân giải DNA, RNA và tấn công vào peptidoglycan để làm suy yếu thành tế bào [2].
Các cơ chế hoạt động khác cũng đã được phát hiện đối với các bacteriocin như thay
đổi hoạt động enzyme, ức chế sự nảy mầm của bào tử và ức chế hoạt động của các
chất mang điện tích âm thông qua sự hình thành của các lỗ [12, 94]. Hoạt tính kháng
khuẩn chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi một số yếu tố như lượng bacteriocin và độ tinh
khiết của nó, tình trạng sinh lý của các tế bào chỉ thị và các điều kiện thí nghiệm [24].
Có khả năng là lớp I và II sử dụng cùng các cơ chế hoạt động giống nhau.
Các cơ chế hoạt động của các nhóm bacteriocin đã được nghiên cứu:
Lớp I - điển hình là nisin: các bacteriocin khác nhau thì cơ chế tác động có thể
là lên thành peptidoglycan hoặc màng nguyên sinh, hoặc kết hợp cả hai cơ chế. Ví dụ,
11

nisin có cả hai cơ chế trong khi đó thì lacticin thì chỉ có khả năng tác động lên thành
peptidoglycan.
Đối với thành peptidoglycan: lipid II giữ vai trò quan trọng trong quá trình vận
chuyển các đơn vị tổng hợp nên thành peptidoglycan từ trong tế bào chất. Bacteriocin
thuộc nhóm này có khả năng liên kết với lipid nằm trên màng nguyên sinh, sự liên kết
này được giải thích rằng do phần lớn bacteriocin mang điện tích dương và lipid màng
mang điện tích âm vì thế sự liên kết được dễ dàng tạo ra trên màng. Sau khi tạo liên
kết, bacteriocin sẽ khóa lipid làm chúng mất khả năng vận chuyển các tiểu đơn vị cấu
tạo nên thành peptidoglycan.

trong thực phẩm.
Ứng dụng bacteriocin trong thực phẩm có thể qua các cách như: sản xuất tại chổ
(in situ) bởi những vi khuẩn

trong các thực phẩm lên men tinh chế hoặc tinh chế một
phần sau rồi đuợc bổ sung vào thực phẩm hoặc sử dụng các vi khuẩn

sinh bacteriocin
như là một thành phần trong quá trình lên men. Bên cạnh đó, bacteriocin có thể được sử
dụng kết hợp với chất mang cellulose vi khuẩn

nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng [6].
Nisin và bacteriocin của vi khuẩn Gram dương đã được FAO đảm bảo an toàn
thực phẩm. Nghiên cứu trước đây khi bổ sung nisin có thể giảm sự phát triển của L.
monocytogenes trong thịt cá hồi xông khói. Đặc biệt khi bổ sung C0
2
trong quá trình
đóng gói đã làm tăng tác dụng của nisin kháng lại Listeria [90]. Có những nghiên cứu
đang được khuyến khích để tráng thêm một lớp nisin trong quá trình đóng gói.
1.1.5.2. Bảo vệ sức khỏe con người và vật nuôi trên cạn
Hiện nay, bacteriocin và ứng dụng của chúng ở động vật trên cạn là rất lớn. Đặc
biệt là các bacteriocin từ vi khuẩn Gram âm như là colicin và microcin của vi khuẩn
đường ruột, pyocin của P.aeruginosa có sự hứa hẹn lớn cho thuốc của con người và
thú y [90].
Trong tuyến tiêu hóa của con người có sự tồn tại cân bằng giữa hệ vi sinh vật
đường ruột và vật chủ. Vi sinh vật đường ruột đóng vai trò quan trọng cho sự phát
13

triển hệ miễn dịch niêm mạc. Phần lớn vi khuẩn lactic chiếm ưu thế trong hệ đường
ruột, đặc biệt chúng thể hiện hoạt tính sinh bacteriocin trong nghiên cứu in vitro. Một


1.2. Triển vọng sử dụng vi khuẩn sinh bacteriocin làm thuốc đa năng trong nuôi
trồng thủy sản
1.2.1. Tình hình dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản
Một thách thức lớn trong NTTS hiện nay là vấn đề dịch bệnh và sự thay đổi khí
hậu toàn cầu [16]. Vi khuẩn thường phát triển và thể hiện khả năng gây bệnh cao hơn ở
nhiệt độ cao, dẫn đến dịch bệnh càng lớn và nguy hiểm hơn [32]. Hệ vi sinh vật của cá
có thể bao gồm những tác nhân gây bệnh cơ hội trong điều kiện stress như là thay đổi
nhiệt độ đột ngột, mật độ cao và chất lượng nước xấu và do đó gây ra dịch bệnh ở các
đối tượng nuôi. Nguyên nhân gây ra bệnh trong nuôi trồng cá biển bao gồm: bệnh do
nấm, ký sinh trùng, do virus, do vi khuẩn. Hiện nay, bệnh do vi khuẩn gây thiệt hại rất
lớn cho nghề ương nuôi cá thương phẩm. Nhiều bệnh trên cá nuôi lồng bè trên biển do
vi khuẩn đã được ghi nhận: bệnh đốm trắng ở thận trên cá giò nuôi thương phẩm, bệnh
Vibriosis, bệnh mòn vây cụt đuôi và bệnh xuất huyết nhiễm trùng máu ở cá mú, cá
chẽm, cá giò [4]. Trong các bệnh do vi khuẩn gây ra thì nhóm Vibrio spp. gây bệnh đang
được chú ý hơn cả vì tốc độ lây lan và mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng của chúng.
Vibrio- vi khuẩn gây bệnh điển hình ở động vật thủy sản
Bệnh vibriosis là tên gọi chung cho các bệnh khác nhau ở động vật thủy sản do
vi khuẩn Vibrio spp. gây ra. Trong bệnh vibriosis, vi khuẩn Vibrio có thể là tác nhân
sơ cấp hoặc tác nhân thứ cấp (tác nhân cơ hội, cùng với ký sinh trùng hay các tác động
môi trường như cơ học, hóa học) ở động vật thủy sản [3].
Vibrio là tác nhân gây bệnh nguy hiểm đối với động vật thủy sản. V.
anguillarum, V.salmonicida, và V.vulnificus là ba trong số những loài gây bệnh chính
cho vài loài cá [7, 77]. Số lượng chết gây ra bởi Vibrio trên cá và các loài sò hến là rất
phổ biến trong giai đoạn ấu trùng sớm và có thể xuất hiện đột ngột, đôi khi dẫn đến
chết toàn bộ.
Trong những năm gần đây, nghề nuôi cá lồng trên biển phát triển mạnh, bệnh
vibiosis đã trở thành các bệnh thường gặp và gây nhiều tác hại cho nghề nuôi thủy sản
[3]. Bệnh do Vibrio gây ra có thể quan sát được ở khắp mọi nơi có nghề nuôi động vật
thủy sản nước lợ và nước mặn, sự phân bố bệnh này rộng khắp thế giới, tập trung ở

- Vaccine sống có tác dụng làm kích thích đáp ứng miễn dịch của cơ thể động vật
[26]. Nó còn có thể duy trì và gia tăng cùng với vật chủ, đó là kết quả của sự phản ứng
mạnh của tế bào nhằm bảo vệ nó trong thời gian dài.
- Vaccine có thể dễ dàng đưa vào cơ thể vật nuôi bằng nhiều con đường như
nhúng, ngâm, tiêm [26].

Trích đoạn Những giải pháp mới phòng trừ dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản Triển vọng sử dụng vi khuẩn sinh bacteriocin dùng làm thuốc đa năng Tình hình nghiên cứu bacteriocin từ vi khuẩn biển Nguyên vật liệu Phương pháp nghiên cứu
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status