Các phương pháp cận lâm sàng chẩn đoán tràn dịch não và đánh giá phát triển tâm lý vận động ở trẻ em - Pdf 33

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tràn dịch não (Não úng thủy hay bệnh Đầu nước) được định nghĩa là
một tình trạng bệnh lý của hệ thần kinh trung ương. Đây là hậu quả của sự
gián đoạn mất cân bằng giữa quá trình hình thành, lưu thông dòng chảy, hoặc
hấp thu của dịch não tủy trong não [1] (tình trạng tích tụ quá nhiều dịch não
tủy trong sọ do rối loạn các quá trình sản sinh, lưu thông và hấp thụ).
Tràn dịch não có thể là một tình trạng cấp tính, bán cấp hoặc mãn tính
với các hình thức khác nhau của bệnh bao gồm: thể tắc nghẽn, thể thông, và
tràn dịch não áp lực bình thường.
Ngay từ thời Hippocrates [1], [18] bệnh đã được chẩn đoán nhờ các dấu
hiệu lâm sàng đặc trưng của bệnh tuy nhiên phải đến thế kỷ XIX, năm 1891
Quincke, lần đầu tiên chọc dò tủy sống thắt lưng [12], [18] để chẩn đoán và
điều trị Tràn dịch não. Tuy nhiên việc điều trị tràn dịch não thời kỳ này hầu
như không đem lại hiệu quả. Chỉ đến khi sự phát triển của công nghệ chẩn
đoán hình ảnh, sự ra đời và phát triển mạnh mẽ các phương pháp đánh giá
tâm lý-vận động trong thế kỷ XX đã đem lại những tiến bộ vượt bậc trong
chẩn đoán cũng như điều trị và tiên lượng bệnh này.
Tiên lượng Tràn dịch não có liên quan đến nguyên nhân và sự hiện
diện của các rối loạn tổn thương kèm theo, tốc độ phát triển bệnh, thời
gian bệnh được chẩn đoán, hiệu quả của điều trị và quá trình theo dõi,
chăm sóc sau can thiệp.
Từ những vấn đề nêu trên đòi hỏi người thầy thuốc cần đưa ra các phương
pháp cận lâm sàng thích hợp để xác định sớm bệnh, đồng thời xác định rõ căn
nguyên của bệnh từ đó có thể lựa chọn phương pháp can thiệp thích hợp, đồng
thời đưa ra kế hoạch theo dõi cho phù hợp. Tuy nhiên điều mong đợi của cả gia
đình-xã hội và thầy thuốc là đứa trẻ sẽ phát triển tâm lý-vận động thế nào sau
can thiệp? Điều này cần có sự phối hợp giữa thầy thuốc và gia đình trẻ trong
quá trình theo dõi lâu dài. Đáp ứng một phần nhu cầu thực tế trên Chúng tôi


tuỷ. Nếu đã xác định tràn dịch não thất do u não, thì tuyệt đối không đụng chạm
gì tới khoang màng nhện cho tới khi phẫu thuật. Nếu tràn dịch não thất đi kèm
tăng áp lực sọ nặng thì cùng lắm chỉ dẫn lưu dịch não tuỷ ra ngoài trong khi chờ
đợi điều trị thực sự. Nếu có chỉ định đặt ống dẫn lưu hay can thiệp thông sàn não
thất để điều trị nhất thiết phải xác minh xem có viêm màng não không? Nhất là
nếu trước đó bệnh nhân có trải qua một quá trình nhiễm khuẩn thần kinh hay đã
được phẫu thuật vào trong sọ hay trong ống sống.
Nếu nghi ngờ có viêm màng não do Vi khuẩn hay Nấm đương nhiên phải
chọc dò tủy sống lấy dịch não tủy xét nghiệm.
+ Chụp tủy, chụp bao rễ có bơm thuốc cản quang.


4

+ Theo dõi kết quả điều trị.
+ Thực hiện một số nghiệm pháp:
Nghiệm pháp Queckenstedt: ở người bình thường nếu ép hai bên tĩnh
mạch cổ trong thời gian 20-30 giây, áp lực DNT tăng nhanh từ mức bình
thường là từ 80 đến 180 mm H2O đến trên 400 mm H2O. Sau khi dừng ép từ
10-15 giây áp lực dịch não tủy sẽ trở về giá trị ban đầu. Nghiệm pháp được
coi là dương tính (+) khi ép tĩnh mạch cổ, áp lực dịch não tủy không tăng
(trên lâm sàng nó phản ánh tình trạng nghẽn tắc lưu thông DNT ở tủy sống)
hoặc nếu ép tĩnh mạch cổ áp lực tăng rất chậm và không đạt mức độ từ 400
mm H2O trở lên và khi ngừng ép, áp lực dịch quay trở về giá trị ban đầu chậm
(tức là có cản trở lưu thông dịch não tủy) [5], [12].
Nghiệm pháp Stockey: nghiệm pháp này chỉ khác nghiệm pháp
Queckenstedt là thay vì ép tĩnh mạch cổ hai bên sẽ ép tĩnh mạch chủ bụng của
bệnh nhân. Đáp ứng của nghiệm pháp cũng tương tự như trên. Nghiệm pháp
dương tính khi có nghẽn tắc hoặc cản trở lưu thông DNT ở vùng thắt lưng.
Nghiệm pháp thăm dò sự đàn hồi khoang dưới nhện và sự hấp thu dịch não tủy.

Dựa vào lý thuyết tái tạo ảnh cấu trúc của một vật thể ba chiều,
Hounsfield cùng Ambrose (Anh) cho ra đời chiếc máy chụp vi tính cắt lớp
đầu tiên vào năm 1971, gồm một hệ thống phát xạ quang tuyến X và những


6

đầu dò đặt đối diện với bóng X quang. Hệ thống này quay quanh một đường
tròn của một mặt phẳng vuông góc với trục cơ thể. Chùm tia X đi qua một cửa
sổ hẹp khi qua cơ thể bị hấp thụ một phần, phần còn lại sẽ được đầu dò ghi
lại. Kết quả ghi lại được ở rất nhiều vị trí khác nhau của nhiều hình chiếu của
một lớp cắt sẽ được chuyển vào bộ nhớ của một máy vi tính để phân tích.
Phương pháp này cho phép phân biệt các cấu trúc cơ thể trên cùng một mặt
phẳng có độ chênh lệch tỷ trọng 0,5%. Độ phân giải của hình ảnh tuỳ thuộc
vào liều phóng xạ một máy chụp cắt lớp vi tính hiện đại có thể chụp được các
lớp cắt từ 1mm đến 2,5 và 10 mm tốc độ 1 đến 3 giây mỗi lớp cắt. Để phát
hiện các dị tật não bẩm sinh trong nhóm do rối loạn trong quá trình tạo cơ
quan là cắt những lớp cắt ngang song song với đường chuẩn lỗ tai - đuôi mắt
với độ dày lát cắt 1,2,3,5,8 và 10 mm hoặc mỏng hơn. Ở trẻ em thông thường
phải dùng thuốc an thần để giữ cho bệnh nhi yên tĩnh trong lúc máy quét tránh
nhiễu ảnh.
Từ năm 1971 đến nay đã qua bốn thế hệ kỹ thuật đặc biệt công nghệ quét
xoắn ốc được ứng dụng trong lâm sàng cho phép phát tia liên tục nên có thể
- Rút ngắn thời gian chụp một vùng cơ thể hàng chục lần
- Giảm được lượng thuốc cản quang mà ảnh thu được lại có đậm độ
thuốc trong mạch máu và tổ chức cao hơn
- Dữ kiện thu được của một vùng cơ thể có tính liên tục không phải cộng
dữ kiện của nhiều lớp cắt
- Ảnh không gian ba chiều đạt chất lượng cao.
1.2.2. Chụp cộng hưởng từ [9], [13], [24]



8

chiều chuyển động của các nguyên tử này để truyền về hệ thống vi tính xử lý
tín hiệu và tạo ra hình ảnh. Khi cơ thể ra khỏi vùng từ trường này thì các
nguyên tử trong phân tử nước lại trở lại trạng thái bình thường.
Phương pháp chụp cộng hưởng từ, là một sự tương tác phức tạp giữa
những proton trong các mô sinh học một từ trường tĩnh và xoay chiều và năng
lượng dưới dạng sóng vô tuyến có tần số đặc biệt (Rf) được tạo ra bằng những
cuộn dây đặt kế bên phần cơ thể cần chụp hình. Trạng thái năng lượng của
các proton Hydro được kích thích nhất thời. Sự trở lại cân bằng (giảm căng
hay thư giãn) sau đó của các proton gây ra một sự phóng thích năng lượng
(Rf-sự vọng lại) có thể được đo lường nhờ chính các cuộn dây bề mặt đã tạo
ra các xung Rf. Phức hợp tín hiệu Rf được phép phân tích Fourier biến đổi
thành những thông tin dùng để tạo nên một hình ảnh cộng hưởng từ. Thời
gian giảm thì T1 và T2 là tốc độ trở lại sự cân bằng của các proton bị khuấy
động được gọi là tốc độ thư giãn. Tốc độ này khác nhau giữa mô lành và mô
bệnh. Có thể đo được tốc độ thì T1 và T2 trong đó T1 là thời gian để cho 63%
proton trở lại trạng thái cân bằng bình thường, T 2 là thời gian để 63% trở
thành lệnh pha do sự tương tác của các proton kế cận. Cường độ tín hiệu và qua
đó sự tương phản của hình ảnh có thể được điều tiết bằng cách thay đổi một vài
tham số như khoảng cách thời gian giữa các xung Rf (TR) và thời gian giữa
xung Rf và sự tiếp nhận tín hiệu (TE). Các hình ảnh gọi theo là T1 (T1W –
T1Weighted) được tạo ra bằng cách giữ cho TR và TE tương đối ngắn. Trong
các điều kiện này độ tương phản giữa các cấu trúc được dựa chủ yếu trên
sự khác biệt T 1. Các hình ảnh theo T 2 (T2W) được tạo ra bằng cách dùng
những khoảng thời gian TR và TE dài hơn tuỳ vào tổn thương hoặc tích
chất của các mô mà sự tương phản khác nhau trên hình ảnh cộng hưởng từ
của T 1W và T2W.

được tình trạng teo não [31].


10

Chụp não thất với chất cản quang: ngày nay kỹ thuật này đã mất vai trò
mà nó đã có trước kia. Khi nghi ngờ có u ngay trong não thất bên, hoặc từ
ngoài phát triển vào trong não thất, người ta thường bơm chất cản quang vào
sừng trán qua một lỗ khoan ở bán cầu phải, và ghi hình. Nếu cần ghi hình
đường lưu thông dịch não tuỷ ở hố sau, thì cho chất cản quang từ dưới lên
như đã nói trên.
1.2.3. Siêu âm [3], [25]
Siêu âm là một phương pháp khảo sát hình ảnh học bằng cách cho một
phần của cơ thể tiếp xúc với sóng âm có tần số cao (siêu âm) để tạo ra hình
ảnh bên trong cơ thể. Siêu âm không sử dụng các phóng xạ ion hóa (như X
quang). Do hình ảnh siêu âm được ghi nhận theo thời gian thực nên nó có thể
cho thấy hình ảnh cấu trúc và sự chuyển động của các bộ phận bên trong cơ
thể kể cả hình ảnh dòng máu đang chảy trong các mạch máu. Siêu âm là một
khảo sát y học không xâm hại (không gây chảy máu) nên được áp dụng rộng
rãi trong chẩn đoán và điều trị bệnh.

Hình 3: Máy siêu âm 2D
Máy siêu âm bao gồm
Bộ điều khiển gồm có máy vi tính và nguồn điện, màn hình và đầu dò được
dùng để scan cơ thể và các mạch máu.


11

Các loại đầu dò siêu âm

Compton. Vận tốc truyền sóng âm phụ thuộc vào độ cứng và tỷ trọng của môi
trường vật chất xuyên qua, trong cơ thể người: mỡ 1450; nước 1480; mô mềm
1540; xương 4100 m/giây.
+ Sự phản xạ hay phản hồi:
Trong môi trường có cấu trúc không đồng nhất, một phần sóng âm sẽ
phản hồi ở mặt phẳng thẳng góc với chùm sóng âm tạo nên âm dội hay âm
vang (echo), phần còn lại sẽ lan truyền theo hướng của chùm sóng âm phát ra.
Như vậy, ở đường ranh giới giữa hai môi trường có trở kháng âm (acoustic
impedance), ký hiệu là Z, Z khác nhau tùy thuộc cấu trúc của vật chất đặc biệt
là số nguyên tử. Sóng phản hồi sẽ thu nhận bởi đầu dò, sau đó được xử lý
trong máy và truyền ảnh lên màn hình (display), hoặc ghi lại trên phim, giấy
in hoặc trên băng đĩa từ. Tất nhiên các sóng phản hồi không được thu nhận
bởi đầu dò sẽ bị biến mất theo luật suy giảm.
+ Sự khúc xạ, nhiễu âm:
Khi chùm sóng đi qua mặt phẳng phân cách với một góc nhỏ, chùm âm
phát ra sẽ bị thụt lùi một khoảng so với chùm âm tới còn gọi là nhiễu âm.
Chính điều này sẽ tạo ra ảnh giả.
- Đầu dò (Transducer - Probe): làm nhiệm vụ vừa phát vừa thu sóng âm
phản hồi. Nó bao gồm một hoặc nhiều miếng gốm áp điện (piezo-eletric), khi
có dòng điện xoay chiều tần số cao khích thích vào miếng gốm này làm cho
nó co giãn và phát ra xung siêu âm. Ngược lại khi miếng áp điện rung lên do
sóng siêu âm dội trở về sẽ tạo ra một xung động. Sóng siêu âm lan truyền vào
các mô trong cơ thể, gặp các mặt phẳng sẽ gặp các sóng âm dội trở về. Mỗi
âm dội mà đầu dò thu nhận được sẽ chuyển thành tín hiệu điện, từ tín hiệu
này sẽ được chuyển thành tín hiệu trên
- Các loại kỹ thuật siêu âm: gồm năm kỹ thuật.


13



* Ứng dụng siêu âm trong bệnh tràn dịch não.
Khi bà mẹ có thai 16-20 tuần, kiểm tra siêu âm có thể xác định tràn dịch
não ở thai nhi. Thầy thuốc có thể tư vấn cho bà mẹ và gia đình về tình trạng
thai. Điều này các phương pháp khác như CLVT hoặc cộng hưởng từ không
có khả năng ứng dụng[3], [30].
Đối với nhũ nhi chưa liền thóp trước, dùng siêu âm kiểu B để xác định xem
trong sọ có u hay không là các khảo sát rất chính xác, vô hại, kỹ thuật này còn giúp
đánh giá kích thước, hình dạng các não thất thăm dò lưu thông dịch não tủy. Trong
điều kiện kinh tế thấp của nước ta, khi máy CLVT, CHT chưa phải là phương tiện
có thể triển khai ở mọi địa phương thì siêu âm càng có vai trò quan trọng.
Ứng dụng siêu âm kiểu 3D cho phép xác định các dị tật hoặc các tổn
thương khác kèm theo (xuất huyết não sơ sinh) kết quả rất đáng tin cậy độ đặc
hiệu của phương pháp sàng lọc bằng siêu âm đạt 77% [25]. Ngoài ra còn được
sử dụng để theo dõi định kỳ sau phẫu thuật.
1.3. Một số phương pháp khác
* Đo áp lực nội sọ:
Hiện nay tại các nước kinh tế phát triển, khi gặp trường hợp tràn dịch não
thất có tăng áp lực nội sọ từng đợt mà không có u não, bao giờ người ta cũng ghi
áp lực trong sọ liên tục ít nhất trong 24 giờ bằng đầu dò điện tử đặt vào não thất
qua một lỗ khoan, thường ở sừng trán bên phải. Những trường hợp ghi nhận
được áp lực trong sọ cao liên tục hay từng đợt trong giấc ngủ, thường cần phải
điều trị bằng cách đặt ống dẫn lưu từ não thất vào khoang màng bụng[30].
* Điện não đồ:
Ít có giá trị trong chẩn đoán trong tràn dịch não tuy nhiên ở một số trường
hợp trẻ co giật có thể thực hiện giúp cho việc điều trị và tiên lượng.


15


Trẻ 4 tháng: Cười sằng sặc khi đùa với ngưòi khác; Dùng tay kéo đồ
chơi và cầm đồ chơi trong tay chóc lát. Giữ đầu vững, ngồi đầu không rủ,
nằm sấp nhấc cằm và ngẩng mặt, lẫy từ ngửa sang sấp.
Trẻ 5 tháng: Phát ra phụ âm, cầm đồ chơi trong tay, lẫy từ sấp sang ngửa,
trẻ có thể ngồi được khi được giữ hai tay và có thể đứng khi được xốc nách.
Trẻ 6 tháng: Phân biệt lạ quen, giơ tay khi được bế; Bước đầu biết sử
dụng tính năng của đồ chơi, tỏ ra bực bội khi bị lấy mất đồ chơi. Biết bò, ngồi
vững, bước đi khi xốc nách.
Trẻ 9 tháng: Nhặt vật nhỏ bằng ngón tay cái và trỏ; Phát âm a, ba. Ngồi
vững lâu, tự vịn thành giường đứng lên.


17

Trẻ 10-12 tháng: Hiểu từ “không”, chỉ tay và đòi vật mình thích. Sử
dụng ngón tay dễ dàng hơn đập đồ chơi vào bàn và quang xuống đất. Đứng
vịn vững, bắt đầu đi men và đi buông.
Trẻ 13-15 tháng: Biêt mở nắp hộp, băt chưóc xếp chồng các hình khối lên
nhau, sử dụng ngón tay dễ dàng hơn, có thể cầm chén uống nước. Sử dụng bốn
đến sáu từ khi nói. Đáp ứng với những mệnh lệnh đơn giản. Đi men giỏi, bắt đầu
tự đi một mình.
Trẻ 16-18 tháng: Cầm cốc uống nước, chỉ các bộ phận mắt, mũi, tai.
Phản xạ khi đại, tiểu tiện (biết kêu đòi đi đại, tiểu tiện); Bắt chước nói câu hai
từ. Có thể đứng vững, đứng thẳng, mắt nhìn xa. Đi nhanh
Trẻ 2 tuổi: Đòi đi vệ sinh; xếp đồ chơi thành hàng, bắt chước làm một số
việc; Nói câu trên hai từ- Bắt đầu có suy nghĩ Có thể lên xuống cầu thang khi
có người dắt.
Trẻ 2-3 tuổi: Nói nhiều, đặt nhiều câu hỏi, có vốn từ trên 250 từ ; Thuộc
nhiều bài hát' Động tác khéo léo (cài cúc áo, cầm thìa,...). Trẻ đi nhanh, chạy,
leo lên cầu thang, bậc cửa. Hoạt động khéo léo: cầm dao, kéo, buộc dây; Nói

12-18 tháng Đi một mình
Xếp được vật này lên vật kia
18-24 tháng Bắt đầu chạy
Bắt chước tô đường kẻ dọc, ngang
25-30 tháng Ném bóng, nhảy, chạy, leo tốt
Xếp được sáu khối lên nhau
30-36 tháng Lên xuống cầu thang một mình
Vẽ vòng tròn, hình vuông
3-4 tuổi
Đứng trên một chân, đi xe ba bánh Sử dụng kéo
4-5 tuổi
Ném bóng chính xác
Vẽ một bộ phận người, tô chữ
5-6 tuổi
Chạy leo tốt
Bắt đầu đi học, viết chữ
6-7 tuổi
Phát triển lời nói
2-5 tháng cười
6-8 tháng Giọng bắt chước
8-10 tháng Kết hợp từ và hành động (măm măm, ba ba)
10-12 tháng Nói từ đầu tiên Có 3 đến 50 từ
12-18 tháng Biết bộ phân cơ thể, lấy đổ vật khi sai bảo, nói lóng
18-24 tháng Nói được câu hai từ
2-3tuổi
Có 50 - 300 từ, nói câu ba đến bốn từ
4tuổi
Nói được giới từ, đại từ, số nhiều
5tuổi
Chia động từ thời quá khứ, đếm, phân biệt màu sắc

sử dụng trong chẩn đoán tâm lý lâm sàng là : phương pháp khai thác tiền sử,
bệnh sử ; xây dựng lý lịch tâm lý của người bệnh ; phương pháp thăm khám
bệnh học tâm thần ; phương pháp xét nghiệm sinh học ; phương pháp điều tra
theo phiếu , phương pháp trò chuyện, phương pháp phân tích sản phẩm... Song,
trong số những phương pháp này, đáng lưu ý hơn cả là các trắc nghiệm.
2.2.2. Một số vấn đề chung về phương pháp trắc nghiệm [11]
2.2.2.1. Khái niệm về trắc nghiệm tâm lý
Trắc nghiệm, theo nghĩa tiếng Hy Lạp, đó là một phép thử, phép đo.
Trong rất nhiều tài liệu ở nước ta, thuật ngữ ‘trắc nghiệm’ và ‘test’ được sử
dụng với nghĩa tương đương nhau.
Trắc nghiệm được coi là nhóm các phương pháp nghiên cứu đang được
sử dụng rộng rãi nhất trong tâm lý học nói chung và trong Tâm lý học-Y học
nói riêng. Nó là một trong những công cụ đặc biệt, giữ vai trò chủ yếu để giải
quyết các nhiệm vụ của tâm lý học lâm sàng.
Trắc nghiệm tâm lý là hệ thống các biện pháp đã được chuẩn hóa về kỹ
thuật, được quy định về nội dung và quy trình thực hiện, nhằm đánh giá hành
vi và kết quả hoạt động của một người hoặc một nhóm người.
2.2.2.2. Cơ sở của các trắc nghiệm tâm lý


20

* Tính quy chuẩn
Trắc nghiệm phải được chuẩn hóa về mặt kỹ thuật (về trình tự các thao
tác, điều kiện tiến hành trắc nghiệm...). Điểm chuẩn của trắc nghiệm phải
được xác lập trên một nhóm đông người, đại diện cho một quần thể về lứa
tuổi, văn hóa, nghề nghiệp, sắc tộc, giới tính....Đánh giá bất kỳ phẩm chất tâm
lý của cá nhân cũng phải dựa theo những đơn vị chuẩn này.
* Tính hiệu lực
Trắc nghiệm phải đo được những cái cần nghiên cứu và hiệu quả đo

- Các tiêu chuẩn của trắc nghiệm được xác lập đầy đủ, chính xác, nên
việc đánh giá được thực hiện một cách dễ dàng.
- Trắc nghiệm có thể được sử dụng cho từng cá nhân hoặc cho cả nhóm
người.
2.2.2.4. Các kiểu loại và hình thức trắc nghiệm
* Các kiểu loại trắc nghiệm
Trắc nghiệm gồm một số kiểu chính sau đây:
+ Kiểu trắc nghiệm dành cho cá nhân hoặc dành cho nhóm.
+ Kiểu sử dụng ngôn ngữ hoặc sử dụng hành động thực thi.
+ Kiểu trắc nghiệm viết hoặc trắc nghiệm nói.
+ Kiểu trắc nghiệm tiến hành trong điều kiện nhân tạo (trong phòng thí
nghiệm) hoặc trong điều kiện tự nhiên (như trong giáo dục, trong lao động,
khi chữa bệnh...).
+ Kiểu trắc nghiệm cần đến những công cụ đặc biệt hoặc chỉ sử dụng các
phương tiện thông thường (như giấy, bút, đồng hồ...).
Ngày nay chúng ta đã có nhiều phương tiện nghe nhìn hiện đại, dựa trên
các phương tiện này mà chúng ta biết rất nhiều kiểu trắc nghiệm mới đã ra đời
và việc thực hiện các trắc nghiệm có nhiều thuận lợi hơn.
Mỗi kiểu trắc nghiệm có mặt ưu và mặt khuyết nhất định. Tùy đối tượng,
tùy khách thể và các điều kiện trắc nghiệm mà chúng ta lựa chọn các kiểu trắc
nghiệm cho phù hợp.


22

* Các hình thức trắc nghiệm
Trước đây, các trắc nghiệm cá nhân thường được xây dựng trên cơ sở
những câu trả lời độc lập, tự do của khách thể nghiên cứu. Câu trả lời càng
đầy đủ, người tiến hành trắc nghiệm càng dễ dàng đánh giá kết quả. Song
hình thức này cũng đòi hỏi trắc nghiệm viên phải thật sự có trình độ và phải

nó còn phụ thuộc vào ý thức, trình độ phát triển trí tuệ...của cả trắc nghiệm
viên và khách thể nghiên cứu.
2.2.2.5. Sự trình bày và kiểm tra các bài tập trắc nghiệm
* Một số yêu cầu khi trình bày các trắc nghiệm.
Theo R.L. Thorndike và E.Hagen [28], khi trình bày trắc nghiệm cần
tuân thủ một số yêu cầu sau:
+ Các bài tập trắc nghiệm phải dễ đọc
+ Nếu là trắc nghiệm về học lực, thì bài tập không được nhắc lại những
câu y như trong sách giáo khoa.
+ Tri thức của bài tập này không phụ thuộc vào tri thức của các bài tập kia.
+ Các câu trả lời cho bài tập này không được là những câu gợi ý để trả
lời các bài tập khác.
+ Các câu trả lời đúng trong bài tập của trắc nghiệm lựa chọn phải được
phân bố theo một thứ tự ngẫu nhiên.
+ Các bài tập không được chứa những câu hai nghĩa và nhất là không
“đặt bẫy” đối với người đọc.
+ Trong các bài tập của trắc nghiệm lựa chọn một trong hai cách trả lời,
không được có những từ gợi ý, ví dụ như những bài có từ “luôn luôn”, “tất
cả”... thường là những bài sai và những bài có từ “đôi khi”,”có trường
hợp”...thường là những bài đúng...


24

+ Trong các bài tập yêu cầu điền vào chỗ trống, cần tránh để quá nhiều
chỗ trống trong mỗi bài tập. Những từ bỏ trống phải là những chìa khóa để
hiểu đúng đắn bài tập.
+ Đối với trắc nghiệm lựa chọn, những điều bản chất nhất phải được chứa
đựng trong câu hỏi chính. Không được đưa nhiều chi tiết phụ vào trong câu hỏi.
Những câu trả lời không được chứa những từ vô nghĩa hoặc là những cạm bẫy.

thích ứng tâm lý của chủ thể với hoàn cảnh được nhiều người tán thành.
V.Stern, Nhà tâm lý học người Đức đã coi trí thông minh là năng lực thích
ứng tâm lý chung của con người với những điều kiện và nhiệm vụ mới trong đời
sống. D.Wechsler đã giải thích trí thông minh là năng lực chung của nhân cách,
thể hiện trong mục đích hoạt động, trong sự phán đoán, thông hiểu một cách
đúng đắn và trong việc con người làm cho môi trường phù hợp với khả năng của
mình [11].
Mỗi quan niệm trên xem xét trí thông minh theo một khía cạnh nhất định
và chưa có một quan niệm nào phản ánh một cách đầy đủ bản chất hiện tượng
thông minh của con người.
Định nghĩa về trí thông minh của L.F.Burlatruc: Trí thông minh, đó là một
cấu trúc động, tương đối độc lập của các thuộc tính nhận thức, được hình thành
và thể hiện trong hoạt động, do những điều kiện văn hóa-lịch sử quy định và
chủ yếu bảo đảm cho sự tác động qua lại phù hợp với hiện thực xung quanh,
cho sự cải tạo có mục đích của hiện thực ấy [11].
Quan niệm này phản ánh tương đối đầy đủ về nội dung của trí thông
minh và được nhiều người đồng tình hơn cả.



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status