Bí quyết thành công của Paul Trần Văn Thình - Pdf 56

Bí quyết thành công của Paul Trần Văn Thình (phần cuối) Bí quyết
thành công cCó một người Việt từ rất lâu đã xâm nhập sâu rộng vào thương
trường quốc tế và là nhân chứng của nhiều mốc lịch sử quan trọng. Ông là Paul
Trần Văn Thình - nguyên trưởng phái đoàn thường trực của Liên minh châu Âu
bên cạnh các tổ chức quốc tế tại Geneva (Thụy Sĩ).
Dưới đây là câu chuyện ông kể về đời mình cho báo Tuổi Trẻ.
Tôi chào đời ngày 5/2/1929 ở tỉnh An Giang, một vùng quê êm ả thanh bình. Cha tôi đặt
tên cho tôi là Trần Văn Thìn, đơn giản bởi tôi cầm tinh con rồng. Thế nhưng lúc làm
giấy khai sinh, người ta nói sao viết vậy theo kiểu phát âm miền Nam nên tên tôi bị ghi
thành Trần Văn Thình. Vậy là tôi mang cái tên lạ vì sự nhầm lẫn đó.
Không biết từ bao giờ, trong gia đình tôi định ra một nguyên tắc: con cái không trở
thành thương nhân mà phải trở thành công chức.
Thuở thiếu thời, tôi không tỏ ra đặc biệt hay xuất chúng,
cũng có đầy đủ thói hư tật xấu như những đứa trẻ khác.
Nhưng một “sự cố” đã làm tôi biến đổi hoàn toàn. Đó là
năm tôi được 8 tuổi. Tôi về quê nội ở Sa Đéc nghỉ hè.
Ông nội tôi có tới ba bà vợ, trong đó bà nội tôi là người
trẻ nhất. Bà thứ hai làm nghề bán thuốc bắc. Bà có tiền
và là người rất nghiêm khắc. Nhà ông bà nội nhìn ra bờ
sông mênh mông, thuyền bè đỗ giăng kín. Tối tối, người ta vẫn thường tổ chức đánh
bạc trên các con thuyền ấy.
Có lần tôi đi theo mấy người lớn để xem đánh bạc. Tôi thấy mình cũng có khiếu đỏ đen
vì thường đánh trúng. Ngặt một nỗi tôi không có tiền. Tôi để ý bà Hai có một hòm không
bao giờ khóa, bên trong có rất nhiều túi vải nhỏ đựng tiền. Một hôm nhân lúc vắng
người, tôi lẻn vào phòng lấy một túi. Làm một lần không bị ai phát hiện trong khi đánh
bạc lại thua, tôi lấy tiếp lần hai. Rồi cứ thế tiếp diễn lần thứ ba và thứ tư. Đến lần thứ
năm tôi bị bà Hai phát hiện. Bà Hai hỏi tôi ba bốn lần: “Bà nên xử sự thế nào đây?”. Tôi
Ông bà thân sinh của ông
Trần Văn Thình năm 1991 ở
Geneva. Ảnh: Tuổi Trẻ.
đáp: “Bà đánh cháu mấy roi cũng được, phạt sao cháu cũng chịu. Chỉ xin bà đừng

"Cựu du kích Việt Nam trở
thành quan chức hàng đầu
của EC" - tít bài đăng trên
tạp chí FEER năm 1993 về
ông. Ảnh: Tuổi Trẻ.
phải do tự giác. Bà tôi không thể bắt ép tôi không được nói dối nữa, không được ăn
trộm vặt nữa. Mà chính tôi, sau những cuộc đối thoại với bà, tự cảm thấy đó là điều xấu
xa không nên lặp lại. Tôi ghi sâu trong lòng hình ảnh cuộc đối thoại cuối cùng, bà nhìn
tôi với con mắt âu yếm. Tôi đã khóc không phải vì xấu hổ mà vì cảm động.
Năm 1945, sau khi phát xít Nhật bị đánh bại ở VN, tôi tham gia kháng chiến. Lúc ấy,
thành thật mà nói tôi chưa hiểu lắm về lòng yêu nước. Gia đình tôi vốn có quan hệ khá
thân thiết với người Pháp, thậm chí khi người Nhật tạm chiếm miền Nam, cha tôi còn
giúp người Pháp cất giấu vũ khí và thuốc men. Việc làm này xuất phát từ lòng tin vào
tuyên bố của tướng De Gaulle tháng 1-1944 tại Brazzaville (Congo bây giờ) rằng các
nước thuộc địa giúp Pháp chống phát xít Đức sẽ được trả độc lập. Nhưng sau đó,
những người Pháp thực dân đã không giữ lời hứa. Tôi bị ảnh hưởng nhiều bởi đạo
Khổng, từ bé đã thuộc làu làu Tam Quốc. Tôi thích nhất là Quan Công, nhân vật trung
thành đến tận xương tủy. Vì vậy, khi thực dân Pháp quay trở lại VN, tôi quyết định tham
gia các hoạt động kháng Pháp. Tôi còn rất ghét cha tôi vì ông từng giúp đỡ người
Pháp.
Lúc ấy tôi học Trường Pétrus Ký (nay là Trường Lê Hồng Phong). Các học sinh trong
trường có phong trào làm lựu đạn tự tạo. Tôi cũng tham gia và giúp một số học sinh cất
giữ lựu đạn. Một kỷ niệm ở Trường Pétrus Ký là các học sinh người VN phải tham gia
thi tuyển để được vào học. Tôi nhớ khóa năm 1939, năm tôi lên 10, tôi thi vào lớp 6
cùng 3.000 thí sinh khác và đậu thứ ba. Cha tôi làm một bữa tiệc nhẹ, gồm có phó mát,
sandwich và rượu vang. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi được nếm một ly rượu vang đỏ
chát.
Đầu năm 1946, tôi trốn nhà, bỏ học để tham gia lực lượng vũ trang bộ đội Hoàng Diệu
thuộc Tỉnh bộ Đồ Chiểu (Bến Tre). Một ngày nọ trên đường hành quân, tôi gặp lại một
anh bạn học ở Pétrus Ký. Anh ấy quí tôi, gặp lại tôi liền lôi chai rượu Bordeaux anh ấy

đã 23 giờ, muộn rồi.
Tôi bị tống vào một phòng giam trên đường Catinat (Đồng Khởi bây giờ). Ở đó đã có
khoảng vài chục người bị giam từ trước. Phòng giam bốc mùi hôi hám vì tất cả việc đại
tiểu tiện đều diễn ra ở đó. Tôi là người cuối cùng bị nhốt vào. Lúc ấy tôi coi cái chết nhẹ
như lông hồng. Tôi đã chứng kiến nhiều bạn bè chết hoặc bị thương nên không thấy sợ
hãi lắm.
Năm giờ sáng, cửa phòng giam bật mở. Một cha tuyên úy mang lon quan ba (đại úy)
bước vào. Ông ta có nhiệm vụ cầu nguyện cho những người sắp bị đưa đi hành quyết.
Nhìn một lượt, ông ta dừng mắt lại ở tôi, người bé nhỏ nhất phòng. Ông ta nói: “Mày là
trẻ ranh mà đã tham gia khủng bố. Giết mày phí đi, mày nên đi theo tao”.
Tôi nghĩ họ định đưa tôi đi thủ tiêu riêng nên chống đối kịch liệt. Tôi nói tôi không mang
tội khủng bố, tôi căm thù sự dối trá và tội lỗi. Nhưng cha tuyên úy bỗng hạ giọng: “Ta sẽ
cứu con. Nước Pháp không giết trẻ con. Ta sẽ giúp đưa con đi Pháp”. Nghe vậy, tôi
còn cãi lại: “Không, tôi căm thù nước Pháp”. Cha tuyên úy nói: “Kể ra con nói cũng
phải. Nhưng cứ sang Pháp đi đã. Nhân dân Pháp khác với chính quyền thực dân. Ở đó
cũng có những người tử tế. Hơn nữa, ta có bạn bè ở đó, họ có thể tìm một suất học
bổng cho con”. Vậy là tôi nghe lời, theo cha bước ra khỏi phòng giam. Tôi thoát chết
trong gang tấc, chắc là nhờ “cao số”.
Một sáng tinh sương vài tuần sau đó, tôi bước xuống một chiếc tàu quân sự đi sang
cảng Toulouse miền tây nam nước Pháp. Hành trang mang theo chỉ có ít tiền tiêu vặt
do cha tuyên úy cho, một tờ giấy ghi địa chỉ một người chú kết nghĩa đang làm ăn sinh
sống tại Pháp. Đặt chân xuống Toulouse, tôi co ro trong lạnh giá.
Nhưng khi gặp mấy người Pháp đầu tiên, tôi bỗng dậy lên một ý nghĩ trả thù kỳ quặc.
Tôi gọi họ tới đánh giày cho mình. Sau đó, tôi tìm về Trường cao đẳng Cevenol ở thị
trấn Chambon sur Lignion, vùng Auvergne miền nam nước Pháp, nơi cha tuyên úy gửi
gắm tôi cùng một suất học bổng. Đó là một ngôi làng đẹp như tranh và thanh bình.
Quanh tôi là những cô gái chăn cừu xinh như mộng. Tôi bắt đầu hai năm yên ả trong
cuộc đời mình, chỉ lo học.
Bạn thử tưởng tượng hình ảnh một cậu bé da vàng, cao chưa tới 1,6m, trứng cá nổi
lấm tấm trên mặt và tính tình nhút nhát, đơn độc nơi xa lạ. Đó chính là hình ảnh của tôi

một đoàn đại biểu châu Âu
tại hội nghị thương mại
thế giới gồm đại diện 88
quốc gia tháng 11/1982 tại
Geneva. Ảnh đăng trên
báo New York Times
tháng 11/1982. Ảnh Tuổi
Trẻ.
năm nào. Ông ấy hài hước bảo rằng nếu tính cả gốc lẫn lãi thì 300 quan năm nào nay
thành món tiền khổng lồ rồi, tôi chẳng thể nào trả nổi.
Trong lớp tôi còn có một bạn học sau này cũng trở thành nhân vật nổi tiếng: cựu thủ
tướng Pháp Michel Rocard. Tháng 11/2006, tôi đưa ông ấy cùng vợ và một nhóm bạn
bè về VN du lịch. Trong lớp học, Jacques Chirac và Michel Rocard luôn đứng nhất nhì,
còn tôi do hay bỏ học nên đứng hạng áp chót. Thế nhưng tôi thường được thầy giáo
khen trước lớp vì sự nhanh nhẹn, giỏi xoay xở. Lấy bằng cử nhân xong, tôi lại theo học
tiếp để lấy bằng tiến sĩ luật và kinh tế.
Tôi ở trọ tại một căn gác xép trên tầng bảy không có lò sưởi. Đi học về, tôi chui vào rạp
chiếu phim ngủ nhờ từ 14g-18g cho ấm. Đói bụng, tôi nghĩ cách xin bà bán cá ở dưới
nhà những mẩu xương cá và đầu cá thừa. Tôi nhớ bà ấy là một phụ nữ trông rất ưa
nhìn. Tôi nói với bà tôi có nuôi một con mèo, bà ấy vui vẻ cho ngay. Tôi mang về, lạng
những mẩu thịt để riêng, còn xương và đầu cá tôi ninh lên thành xúp rồi ăn với bánh mì
thành một món ngon tuyệt.
Được một thời gian, một hôm khi tôi xuống xin xương cá như thường lệ, bà bán cá hỏi
tôi: “Nhà anh nuôi mèo thật không?”. Tôi im lặng, bà ấy nhân hậu bảo: “Anh chính là
con mèo phải không?”. Từ đó, bà ấy để dành cho tôi những miếng ngon hơn, sạch sẽ
hơn. Sau này, tôi cùng vợ trở lại căn gác trọ năm xưa để tìm gặp bà bán cá, nhưng bà
không còn ở đó nữa. Đó là một trong những nỗi thất vọng lớn nhất của tôi. Sự tốt bụng
của bà làm tôi nhớ mãi.
Những bài học vỡ lòng đầu tiên về thương mại đa phương tôi có được là nhờ ông
André Philip, bộ trưởng tài chính Pháp thời thủ tướng Paul Ramadier.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status