Tài liệu Chữa bệnh thuỷ đậu bằng đông y doc - Pdf 89

Chữa bệnh thuỷ đậu bằng đông y
Vào thời gian khoảng từ tháng 2 đến tháng
4 hằng năm, bệnh thủy đậu (varicella; chickenpox)
thường xuất hiện nhiều nhất. Trong dân gian, căn
bệnh này còn được gọi là phỏng dạ, bỏng rạ hoặc
trái rạ.
Bệnh do vi-rút Varicella Zoster gây ra, có
tính lây lan rất cao, mọi người đều có nguy cơ
nhiễm bệnh, trong đó đặc biệt là trẻ em từ 1 đến 6
tuổi. Thủy đậu không quá nguy hiểm nhưng không
phải không có những biến chứng nặng gây nguy
hại đến tính mạng. Hơn nữa, vi-rút gây bệnh thủy
đậu cũng chính là thủ phạm gây bệnh giời leo
(Zona), căn bệnh có thể được xem như một biến chứng muộn của thủy đậu. Bởi vậy,
việc chữa trị triệt để bệnh lý này là hết sức cần thiết.

Trong đông y, thủy đậu thuộc phạm vi các chứng bệnh như thủy hoa, thủy
bào, thủysang, thủy chẩn... Theo cổ nhân, bệnh phát sinh là do phong nhiệt thời độc
từ bên ngoài xâm nhập vào cơ thể qua mũi miệng, kết hợp với thấp trọc tích tụ lâu
ngày bên trong gây ảnh hưởng chủ yếu đến hai tạng phế và tỳ, và phế chủ bì mao
nên tà khí trước tiên phát tiết ở ngoài da tạo nên các mụn nước trên mặt và toàn
thân. Để chữa trị thủyđậu, đông y chủ yếu sử dụng thuốc theo hai hướng: biện
chứng luận trị và đơn phương nghiệm phương.

Biện chứng luận trị là biện pháp chọn dùng các vị thuốc và bài thuốc trên cơ
sở chứng trạng và thể bệnh cụ thể, có thể là nhiều bài thuốc khác nhau hoặc lấy một
bài thuốc làm hạt nhân rồi tiến hành gia giảm tùy theo bệnh trạng. Thông thường,
thủy đậu được phân ra làm hai thể bệnh là Phong nhiệt kiêm thấp và Thấp nhiệt uẩn
kết. Với thể Phong nhiệt kiêm thấp biểu hiện bằng các chứng trạng như phát sốt, sợ
lạnh sợ gió, chảy nước mũi, ho húng hắng, họng sưng đau, các mụn nước hồng
nhuận chứa dịch trong, ăn kém, đại tiểu tiện bình thường, chất lưỡi hơi đỏ, rêu lưỡi

chanh 12g, sắc uống.

* Dùng ngoài: (1) Rễ hải kim sa 30g, dã cúc hoa 10g, chi tử 3 g, sắc uống. (2)
Sài hồ 10g, hoàng cầm 12g, xích thược 16g, hoàng bá 15g, cam thảo 6g, sắc rửa
tổn thương hằng ngày. (3) Khổ sâm 20g, bèo cái 20g, đại thanh diệp 20g, quán
chúng 20g, tất cả cho vào túi vải, sắc trong 10 phút với 2.000 ml nước, sau đó bỏ bã,
ngâm rửa vết thương mỗi ngày 2 lần. (4) Thanh đại 60g, thạch cao 120g, hoạt thạch
120, hoàng bá 60g, tất cả sấy khô tán mịn, dùng để rắc xoa hoặc trộn với dầu vừng
bôi vào các vết loét do mụn nước vỡ. (5) Xích thạch chi, lô cam thạch, thạch cao và
hàn thủy thạch đã chế, lượng bằng nhau, tán thật mịn, xoa vào tổn thương, thường
dùng cho trường hợp mụn nước đã hóa mủ. (6) Hoạt thạch 10g, thạch cao 10g, cam
thảo 10g, tất cả tán mịn, hòa với dầu vừng, bôi vào vết loét mỗi ngày 1 lần. (7) Lá và
cành hoa lựu trắng lượng vừa đủ, sắc lấy nước ngâm rửa tổn thương. (8) Kim ngân
hoa 10g, liên kiều 10g, lục nhất tán 10g, xa tiền tử 10g, tử hoa địa đinh 15g, hoàng
hoa địa đinh 15g, sắc lấy nước ngâm rửa hằng ngày.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status