Tiểu luận Những bất cập trong việc áp dụng các quy định của thuế nhà đất hiện hành và phương pháp hoàn thiện - pdf 12

Download Tiểu luận Những bất cập trong việc áp dụng các quy định của thuế nhà đất hiện hành và phương pháp hoàn thiện miễn phí



Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các quy định của Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp và Pháp lệnh thuế nhà, đất, Luật thuế sử dụng đất chỉ điều tiết vào hoạt động sử dụng đất của tổ chức, cá nhân trong xã hội, thuế thu với nhà sẽ được điều chỉnh ở một sắc thuế khác. Về đối tượng nộp thuế sử dụng đất, luật cần quy định tất cả các tổ chức, cá nhân có hành vi sử dụng đất đều phải nộp thuế không phân biệt về mục đích sử dụng đất. Mục đích sử dụng đất có thế tạo ra ra sự khác biệt về thuế suất do chính sách khuyến khích của nhà nước đối với từng loại đất là khác nhau. Quy định này sẽ bao quát được diện người sử dụng đất cần nộp thuế, tuy nhiên, cần quán triệt nguyên tắc là chỉ đánh thuế đối với các hành vi hợp pháp chứ không đánh vào hành vi bất hợp pháp. Việc đánh thuế sử dụng đất chỉ hợp lý và hiệu quả khi việc sử dụng đất của chủ thể là hành vi hợp pháp bởi mục tiêu chủ yếu của thuế sử dụng đất phải là tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với đất đai, đảm bảo công bằng xã hội. Nếu hành vi sử dụng đất là bất hợp pháp thì không thể đánh thuế mà nên xử lý bằng các chế tài khác như tịch thu hoa lợi có trên đất, thu hồi đất và xử lý hành chính với các chủ thể đó


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-28115/
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

điều chỉnh vấn đề này còn rất nhiều hạn chế, cộng với tình trạng quản lý lỏng lẻo, nên đất đai chỉ tập trung trong tay một số người giàu có đầu cơ đất đai với mục đích kiếm lời. Vì vậy để khắc phục tình trạng trên không có cách nào khác là sử dụng công cụ thuế để điều chỉnh hiệu quả vấn đề nhà đất.
Nhận thức được tính cấp thiết của đề tài trong thời kỳ hiện nay, nhóm em quyết định chọn đề tài “Những bất cập trong việc áp dụng các quy định của thuế nhà đất hiện hành và phương hướng hoàn thiện” làm đề tài cho bài tập Luật tài chính nhóm tháng 2 của mình. Do nhận thức về vấn đề này còn nhiều hạn chế, bài tập của chúng em chắc chắn không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Mong các thầy cô giúp đỡ! Chúng em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
Khái quát chung về thuế nhà đất
Ở Việt nam tuy chưa có loại thuế nào có tên gọi là thuế tài sản nhưng thực tế đã tồn tại một số loại thuế có mang tính chất của thuế đánh vào quyền sở hữu hay quyền quản lý, sử dụng một số tài sản, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất, thuế trước bạ là những loại thuế có tính chất của thuế tài sản. Tuy nhiên cũng cần phái thấy tính chất đặc biệt của các loại thuế này liên quan đến đối thượng chịu thuế là đất đai. Về mặt pháp lý, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, các tổ chức và cá nhân được giao đất chỉ có quyền quản lý, sử dụng đật, không có quyền sở hữu đất. Vậy đất đai có phải là một loại tài sản trong giao dịch dân dự hay không và thuế đánh vào loại tài sản này có phải là thuế tài sản hay không trả lời câu hỏi này hiện còn nhiều ý kiến trái ngược nhau. Dựa trên quyền sở hữu toàn dân về đất đai mà nhiều người cho rằng đất đai không phải là đối tượng của giao dịch dân dự và loại thuế đánh vào đất không có tính chất của thuế tài sản. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì trên thực tế đất đai vẫn được chuyển nhượng và thuế đánh vào quyền chiếm hữu và sử dụng đất vẫn tồn tại.
Thuế đất là một trong những loại thuế ra đời sớm nhất trong trong lịch sử thuế khóa. Thuế thu vào đất đai được coi là loại thuế tài sản phổ biến ở nhiều quốc gia vì đất đai dễ nhận biết và quản lý. Hiện nay, nhiều quốc gia coi trọng việc đánh thuế nhà, đất nhằm góp phần khuyến khích tổ chức, cá nhân sử dụng đất tiết kiệm, hợp lý.
Cùng với các sắc thuế khác đánh vào tài sản, thuế nhà, đất là nguồn thu chủ yếu của ngân sách địa phương, nhất là ở các quốc gia mà Nhà nước chưa có điều kiện quản lý thu nhập của cá nhân, tổ chức một cách hiệu quả. Ở Việt Nam hiện nay, thuế đối với đất đai bao gồm thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế nhà, đất. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chúng tui chỉ đề cập tới sắc thuế được định danh là thuế nhà, đất trong hệ thống pháp luật thuế hiện hành.
Bắt đầu giai đoạn đổi mới kinh tế, nhà nước đã rất chú trọng việc cải cách hệ thống pháp luật thuế. Pháp lệnh thuế nhà, đất đã được ban hành ngày 29/6/1991(sau đó được thay thế bằng Pháp lệnh thuế nhà, đất ngày 31/7/1992 và sửa đổi ngày 19/5/1994. Theo các văn bản này, thuế nhà, đất là loại thuế thu vào việc sử dụng đất ở, đất xây dựng công trình và nhà. Mặc dù được định danh là Pháp lệnh thuế nhà, đất nhưng nội dung pháp lệnh này chỉ quy định thu thuế đối với đất ở, đất xây dựng công trình mà tạm thời chưa quy định thu thuế đối với nhà. Do đó, đối tượng nộp thuế theo quy định của Pháp lệnh thuế nhà, đất chỉ bao gồm các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất ở và đất xây dựng công trình. Quyền sử dụng đất này có thể do được Nhà nước giao hay do được chuyển đổi, chuyển nhượng, được thừa kế hay được sử dụng một cách hợp pháp. Thuế nhà, đất được thu hàng năm, có tính chất là thuế thu với chủ thể sử dụng đất phi nông nghiệp. Bên cạnh nhu cầu động viên một phần thu nhập của người sử dụng đất nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, chính sách thuế này còn khuyến khích việc sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả quỹ đất ở, đất xây dựng công trình, hạn chế việc chuyển quỹ đất sản xuất nông nghiệp sang xây dựng nhà ở.
Thuế nhà đất là loại thuế thu vào việc sử dụng đất ở, đất xây dựng công trình và nhà. Việc thu thuế nhà đất là nhằm mục đích quản lý Nhà nước đối với việc sử dụng đất ở, khuyến khích tổ chức cá nhân sử dụng đất tiết kiệm, phụ hợp với luật đất đai, động viên sự đóng góp của chủ sở hữu nhà và người sử dụng nhà, đất vào ngân sách Nhà nước.
1) Đối tượng nộp thuế nhà đất
Đối tượng nộp thuế đất là các tổ chức và cá nhân có quyền sử dụng đất ở và đất xây dựng công trình bao gồm tất cả các cơ quan ngoại giao, các tổ chức quốc tế, các cá nhân nước ngoài sử dụng đất ở, đất xây dựng công trình. Quy định này của pháp luật thể hiện nguyên tắc là các tổ chức, cá nhân nào có quyền sử dụng các loại đất trên thì phải nộp thuế. Quyền sử dụng đất này có thể do được Nhà nước giao hay do được chuyển đổi, chuyển nhượng, được thừa kế hay được sử dụng hợp pháp.Trường hợp đất còn có tranh chấp hay chưa xác định được quyền sử dụng đất thì tổ chức, cá nhân đang trực tiếp sử dụng đất là đối tượng nộp thuế đất.
Về nguyên tắc, mọi loại đất được đưa vào sử dụng dưới bất kì hình thức và mục đích nào đều là đối tượng chịu thuế sử dụng đất. Và như vậy, trừ các loại đất nông nghiệp thuộc đối tượng chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp, đất thuộc diện chịu thuế tài nguyên, các loại đất còn lại thuộc đối tượng chịu thuế đất theo quy định của pháp lệnh thuế nhà đất .
Tuy nhiên nhà nước không thu thuế đất đối với những loại đất được sử dụng vào mục đích công cộng, phúc lợi hay từ thiện không có mục đích kinh doanh hay để ở như đất làm cầu công, đường xá, đê điều công trình thủy lợi, công viên, bệnh viện, trường học vv… hay đất chuyên dùng vào việc thờ cúng của các tôn giáo, các tổ chức không có mục đích kinh doanh hay để ở, như các di tích lịch sử, nhà thờ, đền, chùa.
2) Căn cứ tính thuế và mức thuế
Căn cứ tính thuế đất là diện tích, hạng đất và mức thuế trên một đơn vị diện tích.
Diện tích đất để tính thuế đất ở, đất xây dựng, công trình bao gồm: Diện tích đất xây dựng nhà, công trình và các diện tích khác trong khuôn viên đất ở, quanh công trình kiến trúc và cả diện tích đất trống. Việc xác định diện tích đất tính thuế căn cứ vào diện tích được ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì diện tích đất tính thuế căn cứ vào diện tích đất thực giao hay thực tế đang sử dụng.
Hạng đất tính thuế ở cách phân loại đô thị hay dựa trên vị trí của đất ở, đất xây dựng công trình ở từng vùng, khu vực đô thị hay nông thôn.
Về nguyên tắc, đất ở, đất xây dựng công trình thuộc thành phố, thị xã, thị trấn mức thuế đất bằng 03 lần đến ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status