Phát triển nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2008 – 2015 - pdf 12

Download Luận văn Phát triển nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2008 – 2015 miễn phí



Qua nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế và xã hội của đất nước cho chúng ta thấy rằng, muốn phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu thì điều không thể thiếu đó là các nguồn lực, trong đó nguồn nhân lực luôn đóng vai trò tiên phong và cực kỳ quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong điều kiện tỉnh Ninh Thuận hiện đang còn khó khăn về kinh tế; nguồn nhân lực hiện đang thiếu trầm trọng và về số lượng và chất lượng, đây là vấn đề lớn mà muốn thực hiện thành công công tác này thì đòi hỏi tỉnh phải xây dựng một chiến lược căn bản về nguồn nhân lực để đảm bảo cho sự phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội của tỉnh, trong đó có các cụm, khu công nghiệp của tỉnh; muốn đạt được điều đó, theo tôi tỉnh Ninh Thuận cần có các định hướng và giải pháp như sau:
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-29104/
++ Ai muốn tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho!

Tóm tắt nội dung:

m việc lâu năm ở doanh nghiệp nhưng không có điều kiện đi học thêm hay không được chọn đi học để nâng cao trình độ cho nên đã có sự nhàm chán do không được thay đổi môi trường làm việc, không được trao đổi kinh nghiệm v.v làm việc theo kinh nghiệm và theo lối mòn là chủ yếu; đó là nguyên nhân chính chất lượng sản phẩm không được nâng lên, không cải tiến được mẫu mã, không mở rộng được thị trường; cho nên, quy mô sản xuất không được mở rộng, sản xuất cầm chừng và thu nhập của người lao động không tăng.
+ Các Khu Công nghiệp Du Long và Phước Nam là hai khu công nghiệp lớn so với các khu công nghiệp khác trong khu vực Miền Trung và Miền Đông Nam Bộ, có nhu cầu tuyển lao động lớn hơn nhiều so với hai Cụm Công nghiệp Tháp Chàm và Thành Hải nhưng do hiện nay các nhà đầu tư sơ cấp đang đầu tư hạ tầng, các nhà đầu tư thứ cấp mới đăng ký chứ chưa đi vào sản xuất – kinh doanh; cho nên, việc đánh giá sử dụng lao động tại hai khu công nghiệp này là chưa thực hiện được, vấn đề này có thể đánh giá chính xác vào khoảng thời gian sau năm 2011.
Trước hết, trong điều kiện các cơ sở đào tạo của tỉnh còn mỏng, quy mô dân số ít, việc cung cấp lao động có trình độ và tay nghề cao là khó khăn; do vậy, để hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, muốn tuyển lao động có trình độ thì các doanh nghiệp có thể thông báo tuyển từ các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp, các trường Nghề trong cả nước; bên cạnh đó, muốn có lao động lành nghề thì các doanh nghiệp phải có chính sách hấp dẫn để thu hút những lao động từ các doanh nghiệp khác trong nước, các cơ quan nhà nước hay có thể tuyển chuyên gia giỏi, tuyển lao động lành nghề từ những nước đang xuất khẩu lao động v.v đến làm việc cho doanh nghiệp mình.
2.2.3 Đánh giá chung về đào tạo và việc sử dụng nguồn nhân lực trong các khu công nghiệp của tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua.
2.2.3.1 Những kết quả đạt được
Những năm qua, công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Thuận đã thực sự được các cấp Uỷ Đảng và các cấp chính quyền trong tỉnh quan tâm chỉ đạo nhằm triển khai có hiệu quả quan điểm chỉ đạo của Đảng ta là “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”; những thành tựu về giáo dục và đào tạo trong giai đoạn 2001-2005 đã được thể hiện trong báo cáo của Đại Hội Tỉnh Đảng Bộ lần thứ X như sau:
Quy mô giáo dục và đào tạo tiếp tục tăng; tổng số học sinh đến trường trong 5 năm tăng 8,4%; trong đó, học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông tăng nhanh, bình quân tăng trên 8%/năm.
Chất lượng giáo dục được chú trọng, có mặt tích cực; tỷ lệ tốt nghiệp các cấp hàng năm đều tăng, tỷ lệ học sinh khá giỏi và số học sinh đạt giải cao qua các kỳ thi tuyển học sinh giỏi quốc gia, cấp tỉnh và số trúng tuyển vào các trường đại học năm sau cao hơn năm trước. Tỷ lệ trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng hàng năm đạt từ 11 đến 14% so với tổng số học sinh dự thi, tăng gần 1,5 lần so với giai đoạn 1996 – 2000; trình độ đạt chuẩn của giáo viên đạt trên 80%.
Chất lượng giáo dục miền núi có bước chuyển biến tích cực; tỷ lệ huy động trẻ vào lớp 1 đạt trên 90%, cao hơn 20% so với năm 2005; công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm được trú trọng, đã đầu tư xây dựng trường nghề tỉnh và nâng cấp trung tâm dịch vụ việc làm, hoàn thành việc quy hoạch mạng lưới dạy nghề giai đoạn 2006 – 2010.
Hơn 16.000 người được đào tạo các nghề ngắn, dài hạn, tăng 57% và có trên 53.000 lao động có việc làm, vượt 18,5% so với chỉ tiêu đề ra; cơ cấu lao động có bước chuyển dịch theo hướng tỷ lệ tăng lao động trong các ngành công nghiệp, thương mại – dịch vụ”.
Được chia tách từ tỉnh Thuận Hải (cũ), Ninh Thuận đã sớm xác định “Coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, từ chỗ toàn tỉnh chỉ có hai trường Trung học phổ thông vào năm 1992 thì đến nay đã có 16 trường được bố trí đều khắp trên các huyện, thành phố trong tỉnh, có huyện trước đây không có trường trung học phổ thông nào thì nay đã có nhiều trường với quy mô hàng ngàn học sinh như: huyện Ninh Phước hiện nay đã có 4 trường, huyện Ninh Sơn có 3 trường; số lượng trường lớp tăng mạnh ở tất cả các cấp học; toàn tỉnh có 01 trường Cao đẳng Sư phạm, 01 Trường trung cấp Nghề, cùng với 03 Trung tâm Kỹ thuật Tổng hợp - Hướng nghiệp; công tác đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh đã đạt được những kết quả như sau:
- Trong công tác đào tạo nguồn nhân lực:
+ Đối với hệ phổ thông: Số học sinh các cấp học của tỉnh Ninh Thuận mỗi năm tăng bình quân gần 1.000 học sinh, từ 118.357 học sinh năm học 2000 – 2001 lên 124.783 học sinh năm học 2007 – 2008; riêng cấp trung học thì tăng cho cả hai cấp học, năm học 2000 - 2001, cấp Trung học cơ sở là 30.238 học sinh và ở cấp Trung học phổ thông là 10.478 học sinh thì đến năm học 2007 – 2008 cấp Trung học cơ sở là 45.476 học sinh (tăng 15.238 học sinh tỷ lệ tăng 50,39%) và cấp Trung học phổ thông 18.908 học sinh (tăng 8.430 học sinh, tỷ lệ tăng 80,45%).
Cũng lấy thời điểm năm học 2000 – 2001 và năm học 2007 – 2008 thì số trường phổ thông từ 165 trường lên 203 trường, số giáo viên trực tiếp đứng lớp từ 4.424 người lên 5.507 người.
+ Đối với hệ thống các trường chuyên nghiệp
Trước năm 2001, cả tỉnh chỉ có 01 trường Trung cấp sư phạm, chưa có cơ sở đào tạo nghề chính quy nào thì nay đã có Trường Cao đẳng sư phạm với quy mô đào tạo mỗi năm gần 1.000 sinh viên và Trường Trung cấp Nghề với quy mô đào tạo hàng năm cho tất cả các loại hình đào tạo khoảng 1.000 học sinh, ngoài nhiệm vụ đào tạo giáo viên cho ngành giáo dục, Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận còn liên kết với một số trường Đại học để mở một số lớp Đại học tại chức học tại trường như: Đại học sư phạm, Đại học Luật. Số lượng sinh viên chính quy năm học 2006 – 2007 là 772 học sinh – sinh viên và 104 sinh viên đại học Luật hệ tại chức.
+ Kết quả công tác đào tạo tại các cơ sở giáo dục và đào tạo của tỉnh Ninh Thuận (kèm theo bảng số liệu) như sau:
* Hệ phổ thông:
Bảng 2.7 Kết quả đào tạo tại các cơ sở giáo dục và đào tạo của tỉnh Ninh Thuận
Cấp học
Kết quả
Tỷ lệ % qua các năm học
2003 - 2004
2004 - 2005
2005 - 2006
2006 - 2007
2007 - 2008
Tiểu học
Công nhận tốt nghiệp (lớp 5)
99,90
99,62
99,71
99,72
99,72
Hiệu quả đào tạo
81,6
82,76
83,99
84,20
84,60
Trung học cơ sở
Công nhận tốt nghiệp (lớp 9)
95,20
91,00
97,30
95,57
95,88
Hiệu quả đào tạo
70
69
59
62
64,6
Trung học phổ thông
Tốt nghiệp (lớp 12)
83,10
80,4
88,3
82,49
83,56
Hiệu quả đào tạo
68,98
63,83
68,32
66,89
68.56
Nguồn: Báo cáo thống kê của Sở Giáo dục và Đào tạo từ năm học 2003 – 2004 đến năm học 2007 – 2008.
Qua số liệu trên cho ta thấy, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tương đối ổn định, ở hầu hết các cấp học, chất lượng đào tạo và hiệu quả đào tạo đã được nâng lên theo hướng tích cực và ổn định, đáng quan tâm là ở cấp trung học (Trung học cơ sở và...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status