Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam - pdf 12

Download Đề tài Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam miễn phí



Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phối hợp tăng khối lượng tín phiếu Kho bạc Nhà nước đấu thầu hàng quý, hàng năm. Có thể tăng tần suất các phiên đấu thầu từ 1 phiên/1tuần hiện nay lên 2 phiên/tuần. Linh hoạt hơn nữa lãi suất đấu thầu qua các phiên theo sát diễn biến trên thị trường. Thời hạn tín phiếu cũng có thể đa dạng hơn, như kỳ hạn 60 ngày, 90 ngày. thay cho chỉ có loại 360 ngày như hiện nay. Cần có cơ chế để các Ngân hàng thương mại cổ phần và Ngân hàng khác có quy mô nhỏ hơn có thể trúng thầu tín phiếu trên thị trường này. Đặc biệt là Bộ Tài chính cần có biện pháp đưa các Công ty bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tham gia đấu thầu tín phiếu, không nên để tình trạng lãng phí vốn hay quan hệ tiền gửi không kỳ hạn trực tiếp với các TCTD như hiện nay.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-33094/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

g hoảng kinh tế
Làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ :
Gây khó khăn trong việc đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hay giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời
Làm cho đồng nội tệ nhậy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả
Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ, làm cho cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá
Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái
Ở các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng
Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ
Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường hợp đô la hoá chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một nước phát triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau
Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đô la hoá hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối với đô la Mỹ. Đối với vác nước đô la hoá hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương đã bị mất.
Trước thực trạng trên, chúng ta cần nhận định rõ rằng: Đô la hóa là tình trạng khó tránh khỏi đối với những nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và từng bước hội nhập như Việt Nam. Xóa bỏ đô la hóa không phải là xóa bỏ hoàn toàn và phủ định tất cả vì cũng giống như lạm phát, phải duy trì ở một mức độ phù hợp và ổn định để thúc đẩy phát triển kinh tế. Chúng ta phải chấp nhận sự hiện diện của đô la hóa trên cơ sở kiềm chế, khai thác mặt lợi, hạn chế mặt tiêu cực.
Kiểm soát nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Thu hút FDI có tầm quan trọng đối với Việt Nam, do Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, nhu cầu vốn cho nền kinh tế cao trong khi nội lực kinh tế còn yếu so với một số nước trong khu vực. Với hệ thống tài chính của Việt Nam hiện nay FDI là nguồn vốn tương đối tốt cho việc quản lý. Đồng thời các dự án FDI thường được đầu tư vào những lĩnh vực hợp lý và được giám sát chặt chẽ bởi các nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác thông qua huy động vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp, Việt Nam mới thu hút được nhiều hơn vốn nước ngoài từ thị trường tài chính quốc tế. Với tình hình dòng vốn FDI hiện nay, ODA trở thành nguồn vốn quan trọng thứ hai đối với Việt Nam. Đây là nguồn vốn với chi phí tương đối thấp, bởi nó thường được cung cấp với lãi suất ưu đãi, đôi khi còn được cung cấp dưới hình thức viện trợ không hoàn lại. ODA chủ yếu chảy vào các dự án đầu tư hướng đến các lợi ích xã hội, giao thông nông thôn, xóa đói giảm nghèo, giáo dục, y tế… Do kênh huy động vốn qua hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu, còn rất hạn chế, xa lạ đối với một số doanh nghiệp Việt Nam. Nguồn vốn huy động cho sản xuất kinh doanh hầu hết là từ vốn dựa trên các điều kiện ưu đãi, bảo lãnh của Nhà nước. Việc quản lý vay và trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp chưa chặt chẽ, trong vay nợ chưa xác định rõ mục tiêu, hiệu quả kinh tế nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hóa, xuất khẩu, tạo ngoại tệ trả nợ nước ngoài. Dòng ngoại hối chuyển về từ các khoản thu nhập cá nhân ở nước ngoài hay phần thu nhập chuyển về nước của lao động Việt Nam tại nước ngoài. Đây là kết quả của quá trình hoàn thiện chính sách kiều hối, đảm bảo được quyền lợi của kiều bào. Đứng trên góc độ nguồn cung cấp vốn, đây là nguồn vốn rẻ nhất mà nền kinh tế có được, trên góc độ quản lý ngoại hối, kiều hối là một kênh quan trọng để cải thiện cán cân thanh toán của quốc gia
Kiểm soát dòng vốn vào: Để đối phó với dòng vốn vào các nước đều thực hiện một chế độ tỷ giá linh hoạt, đó là sự duy trì hay giảm giá đồng tiền của mình để hỗ trợ tính cạnh tranh xuất khẩu. Chính sách tài khóa cũng là một công cụ hữu hiệu đối phó với dòng vốn vào, tăng thặng dư ngân sách chính phủ có thể giảm nhẹ áp lực lạm phát và tăng tỷ giá thực. Áp dụng tỷ lệ tiền gửi bắt buộc có tính thay đổi đối với dòng vốn vào, tức là đặt ra các mức dự trữ tùy theo loại vốn vào và hoàn cảnh của dòng vốn vào nhằm giảm số lượng vốn vào. Tỷ lệ dự trữ có thể điều chỉnh tùy theo lượng vốn vào, nhưng không thay đổi theo thời gian đáo hạn. Do tiền gửi bắt buộc có tính thay đổi ngăn cản việc tiếp cận nguồn tài chính nước ngoài có khả năng làm tăng tính cạnh tranh giữa ngân hàng và các công ty trong nước, cho nên điều này cần được hạn chế sử dụng ở những giai đoạn có dòng vốn vào nhiều do tăng nhanh tỷ giá. Cần đánh thuế vào những giao dịch ngoại hối dù tỷ lệ rất thấp. Thuế này được đặt ra đối với người mua hay người bán tiền tệ trong nước hay cả hai. Đánh thuế theo một cuộc mua bán xoay dòng đối với giao dịch ngoại hối thì sẽ có hiệu quả hơn. Thuế suất có thể điều chỉnh tùy theo mức độ mở cửa của th...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status