Tiểu luận Hạn chế, bất cập và hướng hoàn thiện trong quy định của tố tụng hình sự về bắt người - pdf 12

Download Tiểu luận Hạn chế, bất cập và hướng hoàn thiện trong quy định của tố tụng hình sự về bắt người miễn phí



MỤC LỤC
 
A. ĐẶT VẤN ĐỀ 2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
I. CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TTHS VỀ BẮT NGƯỜI 2
1. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam 2
2. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp 3
3. Bắt người phạm tội quả tang hay đang bị truy nã 3
4. Bắt người chưa thành niên 3
II. HẠN CHẾ, VƯỚNG MẮC BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA TTHS VỀ BẮT NGƯỜI. 3
1. Hạn chế trong quy định của tố tụng hình sự về bắt người 3
2. Vướng mắc bất cập trong quy định của BLTTHS về bắt người 3
III. HƯỚNG HOÀN THIỆN 3
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ 3
TÀI LIỆU THAM KHẢO 3
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-33960/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

bắt người tại nơi người đó làm việc phải có thay mặt cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của thay mặt chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
3. Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hay bắt người đang bị truy nã quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này”.
- Đối tượng áp dụng và điều kiện áp dụng
Theo quy định trên, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành không quy định cụ thể việc bắt để tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các trường hợp nào nhưng không phải mọi bị can, bị cáo đều có thể hay cần bắt để tạm giam mà chỉ bắt tạm giam đối với những bị can, bị cáo nào nếu thấy cần thiết. Ví dụ như: bị can, bị cáo phạm tội như gây nguy hại rất lớn hay đặc biệt lớn cho xã hội. Bị can, bị cáo phạm tội trong các trường hợp này thì việc bắt để tạm giam họ là cần thiết vì trước hết, các tội phạm trên pháp luật quy định xử lý rất nghiêm khắc do tính chất, mức độ nguy hiểm cao, mặt khác họ có thể trốn tránh gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.
Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Về thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, từng chủ thể có thẩm quyền ra lệnh bắt được xác đinh theo từng giai đoạn tố tụng cụ thể:
Trong giai đoạn điều tra, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra cùng cấp quyết định;
Trong giai đoạn truy tố, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp quyết định;
Trong giai đoạn xét xử, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử quyết định.
Về thủ tục bắt bị can bị cáo
Thủ tục này được pháp luật quy đinh rất rõ tại khoản 2,3 Điều 80 Bộ luật TTHS.
Việc quy định và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định nêu trên về việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam vừa thể hiện sự nghiêm khắc của Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm vừa là sự tôn trọng các quyền cơ bản của công dân, tránh mọi tác động trái pháp luật tới các quyền này.
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hay tội đặc biệt nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tội phạm mà người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm.
Điều kiện áp dụng
Khoản 1 Điều 81 BLTTHS năm 2003 quy định cụ thể ba trường hợp phạm tội bắt khẩn cấp sau đây:
+ Trường hợp thứ nhất, khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Đây là trường hợp hành vi khách quan được quy định trong CTTP chưa xảy ra, mới được thể hiện ở những hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hay tinh thần giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội có thể xảy ra và xảy ra thuận lợi, dễ dàng hơn. Áp dụng biện pháp ngăn chặn trong trường hợp này là để ngăn ngừa không cho tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đang chuẩn bị được xảy ra, gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội. Đối với những trường hợp chuẩn bị tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, thì không được bắt khẩn cấp, mà chỉ được áp dụng các biện pháp chủ động khác mang tính giáo dục, phòng ngừa, răn đe để tội phạm không xảy ra.
+ Trường hợp thứ hai, khi người bị hại hay người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
Đây là trường hợp tội phạm đã xảy ra, nhưng người thực hiện tội phạm không bị bắt ngay. Sau một thời gian, người bị hại hay người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy đã xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm. Nếu Cơ quan điều tra xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn thì ra lệnh bắt khẩn cấp. Những điểm xét thấy cần ngăn chặn người đó bỏ trốn thường là: Đang có hành động bỏ trốn; đang chuẩn bị bỏ trốn; không có nơi cư trú rõ ràng; có nơi cư trú nhưng ở quá xa; là đối tượng lưu manh, côn đồ, hung hãn; chưa xác định được nhân thân của người đó (căn cước lý lịch không rõ ràng).
+ Trường hợp thứ ba, khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hay tại chỗ của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn hay tiêu hủy chứng cứ.
Qua hoạt động như khám chỗ ở, khám người, xem xét dấu vết trên thân thể, kiểm tra, kiểm soát hành chính…Cơ quan có thẩm quyền tìm thấy dấu vết của tội phạm ở người hay tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm. Những dấu vết của tội phạm được tìm thấy có thể là những vật chứng như công cụ phương tiện phạm tội, đối tượng của tội phạm… cũng như dấu vết của tội phạm trên thân thể của người bị nghi thực hiện tội phạm. Việc tìm thấy dấu vết của một tội phạm chỉ đực coi là một điều kiện để bắt người khẩn cấp. Ngoài việc phát hiện dấu vết của tội phạm ở người hay tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm, nếu cơ quan, người có thẩm quyền thấy cần ngăn chặn người đó trốn hay tiêu hủy chứng cứ, thì có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Căn cứ của việc ra quyết định bắt khẩn cấp nhằm ngăn chặn ngay việc người bị tình nghi thực hiện tội phạm bỏ trốn hay tiêu hủy chứng cứ là những tài liệu, chứng cứ khẳng định người đó đã bộc lộ ý định bỏ trốn sau khi bị phát hiện có dấu vết của tội phạm ở người hay tại chỗ ở, không có nơi cư trú nhất định, thuộc loại lưu manh chuyên nghiệp, đang chuẩn bị tiêu hủy chứng cứ, làm giả chứng cứ…
Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Khoản 2 Điều 81 BLTT quy định những người sau đây có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp:
+ Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
+ Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
+ Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp về cơ bản cũng được BLTTHS quy định và áp dụng tương tự như thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhưng có một số điểm khác.
+ Thứ nhất, lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp không cần sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành. Quy đình này nhằm đảm bảo cho việc bắt đạt hiệu quả và kịp thời, đúng như tên gọi “khẩn cấp” ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status