Tiểu luận Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh - pdf 13

Download Tiểu luận Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh miễn phí



Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gai đình nhà Nho yêu nước, gần gũi với nhân dân; trên một quê hương giàu truyền thống cách mạng vì thế yếu tố quê hương và gia đình có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành hệ tư tưởng của Người.
Cha của Hồ Chí Minh - cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là một nhà Nho cấp tiến, có lòng yêu nước thương dân sâu sắc. Nguyễn Tất Thành đã kế thừa được từ chính cha của mình và các bậc tiền bối tư tưởng yêu nước, thương dân, gắn bó với nhân dân và lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi hành động chính trị - xã hội của mình. Từ năm 19, 20 tuổi Người đã nhận thức rõ được điều này và hiện thực hoá trong từng hành động của mình sau này.
Sau này, chủ thuyết học được ở cha bắt gặp trào lưu tư tưởng mới của thời đại đã được Nguyễn Ái Quốc nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong đường lối chính trị của mình. Tư tưởng này có ý nghĩa phương pháp luận đối với Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng và đối với chúng ta hiện nay, đặc biệt là những người làm công tác xã hội.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-35135/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

NỘI DUNG
1. Điều kiện xã hội Việt Nam thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vẫn là một xã hội phong kiến bảo thủ và phản động:
Về chính sách cai trị, sau khi lật đổ được triều đại Tây Sơn , chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành 1 chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động. Cụ thể, về đối nội nhà Nguyễn tăng cường đàn áp, bóc lột nhân dân ta một cách dã man; về đối ngoại thì thực hiện chính sách bế quan toả cảng đối với bên ngoài. Bên cạnh đó, vua quan nhà Nguyễn còn bảo thủ cự tuyệt mọi đề án cải cách, canh tân của nhiều nhà tư tưởng đương thời dù là nhỏ bé và quá muộn mằn. Về kinh tế, nhà Nguyễn vẫn duy trì nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trì trệ là chủ yếu; không mở trường đào tạo khoa học, kỹ thuật, kinh tế. Vì thế đã không mở ra được khả năng cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới, đặc biệt là với các nước tư bản Tây Âu.
Thời điểm đó, nhà Nguyễn đã không chuẩn bị tiềm lực vật chất, tinh thần, thế mạnh của dân tộc để có đủ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc chống lại kẻ thù bên ngoài. Triều đình nhà Nguyễn không những không có tinh thần chiến đấu bảo vệ Tổ quốc mà ngược lại còn có thái độ bạc nhược, phản động. Khi thực dân Pháp mới ở ngoài Biển Đông nhăm nhe tiến vào xâm lược nước ta, vua quan nhà Nguyễn hiếu chiến, chủ quan, coi thường giặc không có biện pháp đối phó. Đến khi Pháp bắn phát súng đầu tiên vào bán đảo Sơn Trà, thì hết thảy vua quan triều đình khiếp sợ, mất tinh thần, cắt dần đất dâng cho Pháp. Triều đình nhà Nguyễn trong thì sợ dân nổi dậy, ngoài thì bạc nhược trước kẻ thù, từ thế chủ chiến, chống cự yếu ớt dần dần nhân nhượng, cầu hoà và sau cùng là cam chịu đầu hàng để giữ lấy ngai vàng và lợi ích cho hoàng tộc.
Như vậy, việc nước ta rơi vào tay giặc Pháp vào cuối thế kỷ XIX không phải là một định mệnh lịch sử như nhà Nguyễn nguỵ biện mà là sai lầm của vua quan triều đình. Lịch sử đã cho thấy, dân tộc Việt Nam trong quá khứ từng đọ sức với nhiều kẻ thù hừng mạnh hơn mình gấp bội mà vẫn chiến thắng vẻ vang. Vốn kinh nghiệm và tinh thần yêu nước của dân tộc ta luôn phát huy mạnh mẽ trong thời điểm khó khăn nhất của dân tộc và tạo nên sức mạnh thần kỳ chiến thắng mọi kẻ thù. Nếu giai cấp cầm quyền sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng, trong thì dựa vào sức dân, ngoài thì cải thiện mối quan hệ bang giao, chuẩn bị thực lực, quyết tâm lãnh đạo nhân dân kháng chiến, bảo vệ đất nước thì mươi ngàn quân Pháp lúc bấy giờ không phải là một lực lượng bất khả chiến thắng. Nhưng vua quan triều đình đã không làm được nhiệm vụ đó mà cam chịu đầu hàng, thậm chí làm tay sai cho Pháp đàn áp nhân dân. Như vậy, cuộc kháng chiến của nhân dân ta lâm vào một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, phải cùng lúc chống "cả Triều lẫn Tây".
Từ năm 1858 đến suốt thế kỷ XIX, mặc dù triều đình nhà Nguyễn bạc nhược, đớn hèn đã cam chịu đầu hàng nhưng những phong trào vũ trang đấu tranh chống thực dân Pháp của quần chúng nhân dân lần lượt xuất hiện và lan rộng trong cả nước đã viết nên trang sử vẻ vang cho dân tộc: ở Nam bộ có Trương Định, Nguyễn Trung Trực; ở Trung bộ có Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng...; ở Bắc bộ có Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích...Các cuộc khởi nghĩa đều được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nhiệt thành và chí căm thù giặc sục sôi, song trước sau đều thất bại vì còn mang nặng hệ tư tưởng phong kiến. Lãnh đạo những phong trào này là các sĩ phu, văn thân mang ý thức hệ phong kiến, còn nặng tư tưởng tôn quân, chưa thật tin vào lực lượng nhân dân cũng chưa thật tin vào thắng lợi cuối cùng. Điều đó cho thấy sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trước nhiệm vụ lịch sử của dân tộc.
Đầu thế kỷ XX, sau khi tạm thời dập tắt được các cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân ta, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất khiến cho xã hội Việt Nam có sự biến chuyển và phân hoá sâu sắc. Giai cấp công nhân, tầng lớp tiểu tư sản và mầm mống của giai cấp tư bản bắt đầu xuất hiện. Bên cạnh đó là sự du nhập của Tân thư, Tân văn - những học thuyết nước ngoài...và các cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu từ Trung Quốc đã ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Như vậy, trong xã hội Việt Nam đã hội tụ đủ yếu tố thực tiễn và yếu tố lý luận thúc đẩy phong trào cách mạng yêu nước Việt Nam chuyển dần sang phong trào dân chủ tư sản, với một loạt các phong trào khởi nghĩa: phong trào Đông Du, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, phong trào Duy Tân, phong trào Việt Nam Quang Phục Hội...Những phong trào này đã ghi thêm những trang sử hào hùng cho dân tộc song cũng chỉ rộ lên một thời gian ngắn rồi kần lượt bị dập tắt, một phần vì chưa lôi cuốn được các tầng lớp nhân dân, phần khác vì các phong trào này chủ yếu vẫn do các sĩ phu phong kiến cựu học truyền bá và dẫn dắt nên còn nhiều hạn chế và bất lực trước nhiệm vụ lịch sử của đất nước. Quan trọng nhất là vì các phong trào này còn gắn với hệ tư tưởng tư sản - đã trở nên lỗi thời và lạc hậu ở phương Tây. Như vậy, một lần nữa lịch sử Việt Nam chứng minh sự thất bại của các phong trào khởi nghĩa chống thực dân Pháp là do chưa tìm được hệ tư tưởng đúng đắn, hệ tư tưởng phong kiến và tư sản không phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Khi Nguyễn Tất Thành lớn lên cũng là lúc phong trào cứu nước đầu thế kỷ XX ở trong thời kỳ khó khăn nhất: trường Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa (02/1907), cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung bị đàn áp đẫm máu (04/1908), vụ Hà Thành đầu độc bị thất bại và tàn sát (06/1908), căn cứ của nghĩa quân Yên Thế bị bao vây và đánh phá (01/1909), phong trào Đông Du bị tan rã, Phan Bội Châu và các đồng chí của ông bị trục xuất khỏi Nhật (2/1909)...Phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn giành thắng lợi thì phải tìm ra một con đường mới.
2. Quê hương và gia đình.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gai đình nhà Nho yêu nước, gần gũi với nhân dân; trên một quê hương giàu truyền thống cách mạng vì thế yếu tố quê hương và gia đình có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành hệ tư tưởng của Người.
Cha của Hồ Chí Minh - cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là một nhà Nho cấp tiến, có lòng yêu nước thương dân sâu sắc. Nguyễn Tất Thành đã kế thừa được từ chính cha của mình và các bậc tiền bối tư tưởng yêu nước, thương dân, gắn bó với nhân dân và lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi hành động chính trị - xã hội của mình. Từ năm 19, 20 tuổi Người đã nhận thức rõ được điều này và hiện thực hoá trong từng hành động của mình sau này.
Sau này, chủ thuyết học được ở cha bắt gặp trào lưu tư tưởng mới của thời đại đã được Nguyễn Ái Quốc nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong đường lối chính trị của mình. Tư tưởng này có ý nghĩa phương pháp luận đối với Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng và
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status